Sunday, December 21, 2008

Ối Cha Cha! Thầy ơi là thầy!


Phiếm “loạn”(III)

Ối Cha Cha!
Thầy ơi là Thầy!
“Sàn địa ngục được lát bằng ý hướng tốt”
(L’enfer est pavé de bonnes intentions)

Ai trong chúng ta, ít nhất một lần, đã không nghe lời khuyến nhủ rất “phi-lô-dzóp”(philosophe): «Muốn nói ngoa, làm “Cha” mà nói!»? Tưởng giễu cợt, chọc đời cho vui. Ai ngờ quá chí…ný: càng cao phẩm trật, Cha càng nhiều uy quyền nói ngoa, nói trên đầu cha thiên hạ luôn! Mọi người hẳn còn nhớ vụ cờ vàng cờ đỏ trong kỳ Đại Hội Trẻ Thế Giới tháng 7/2008 vừa qua trên Xứ Đại Thử.
Có lẽ truyền thống Á đông “thượng đội” đã dần dà trở thành luật bất thành văn: vốn thường xuyên là nạn nhân của tập đoàn bề trên chuyên ngồi trên “phát huy óc sáng tạo”, luôn khai thác chiêu bài hấp rẫn “tính độc đáo đầy dzân tộc tính” của nhân rân ta, dân da vàng mũi tẹt chúng ta giờ đây lại “được” thuyết phục kèm lời răn đe rằng:
«Muốn nói bậy, làm “Thầy” mà nói!»

Xin hãy theo dõi -mới đây thôi, còn nóng hổi- vụ “Xì” mà cây bút Thiện An Lạc gọi là “tình pháp duyên tăng”, cũng tại cái Xứ Kangaroo kiều diễm còn lưu nhiều dấu vết thời hoang dã. Và vụ đoàn tùy tùng của “Thần”&“Thánh” & “Công Ty” truyền hịch cho thứ dân hãy khấu đầu tuân thánh chỉ cấm đụng tới “THẦY” (Tăng). Người viết không biết nên thở dài lâm râm than van “Thánh Thần ơi!” hay kêu trời như bộng:“Trời đất quỷ thần ơi!”…

1-Thôi thì đủ thứ thầy, khổng lồ có, nước cơm chắc có. Thầy nói, đệ tử nghe, không nghe cũng không được nói ngược chiều. Đường ta, ta cứ đi, nhằm nhò gì ba cái lẻ tẻ thị phi của đám “dân ngu khu đen” toan bề “phạm thượng”!
Thầy ngự trên cao (ngồi trên) uy nghi lẫm liệt như CHƯ THẦN; ngay hàng đầu, phủ phục dưới chân Thần, cờ hiệu cấm trên lưng, là ba đệ tử ruột oai phong như TAM THÁNH; phía sau là đám sai nha sì sụp lạy… Kẻ yếu bóng vía trông vào, không khỏi hồn phi phách tán!
Có lẽ từ đó mà cái bịnh “ham” làm thầy rất dễ truyền nhiểm: khi vụ xì-căng-đan “thầy trai-đệ tử gái” nổ ra, tại hạ có góp một bài viết -xin nói rõ một bài viết chứ không phải ý kiến độc giả. Liền tức khắc, trong đám sai nha có ngay một vị hăng tiết vịt nhào lên mạng, thay cho Tam Thánh, dạy đời rằng tại hạ ngông nghênh, không có lòng tự trọng (sic!), vô lễ với ba ông thánh đã “nhân danh nầy nọ” hiệu triệu quốc dân đồng bào “che, ém, xù”, với luận điệu hấp tấp là ba vị kia, nếu không là “thầy” cũng là “đàn anh” của tại hạ!
Ấy! Ấy! Xin cụ chớ có hung hăng con bọ xích, nhỡ hố thì quê một cục đấy nhá! Một bạn đọc “xốn mắt” đã phản bác cụ rồi. Tuy nhiên, cũng xin nhắc lại cụ, tại hạ năm nay 74 tuổi ta, có làm thầy -thầy giáo- chứ chưa dám trèo cao làm thầy tu, dẫu có thời tại hạ đã sống “nửa kiếp thầy tu, nửa kiếp tù” trong trại “cải tạo” CS.
Theo vị độc giả trên, trong Tam Thánh, người cao niên nhất vẫn nhỏ hơn tại hạ 10 tuổi. Chưa kể có vị “thua” kẻ hèn mọn nầy non 20 niên kỷ! Qua cách viết rỗn rãng trên Net , tại hạ đoán cụ chắc còn lâu lắm mới được trợ cấp tiền già. Thế mà chưa chi cụ đã dạy tại hạ kính lão đắc thọ!
Kể ra cụ cũng khôn đấy, biết lựa chỗ mà “thượng đội”. Nhưng tại hạ cũng xin mạn phép lưu ý cụ chớ có thượng ẩu thượng tả, coi chừng thượng…nhầm chỗ phải gió mà tiêu tán đường cụ nhá!
Về điểm nầy, người viết thoáng nhận ra “tâm tính” rất ư là “an-nam ta” của cụ; hể đuối lý là giở giọng lếu láo, dở hơi, kẻ cả với người đối thoại hoặc tranh luận với mình:
-Đằng ấy chỉ đáng là đàn em, là học trò của “đàn anh” của tớ!
Ấy! Ấy! Cụ cho tôi hỏi: Chẳng hay cụ và “Còm-pa-nhi” Tam Thánh của cụ có vị nào:
-đã làm thầy giáo chưa? Nếu có, xin cho tại hạ biết quí vị đã giảng dạy ở trường nào. Để tại hạ tiện bề ra mắt bậc thầy mình cho phải đạo.
-đã xuất thân trường Võ Bị nào trước 1963 và đã ra trận lần nào chưa? Để tại hạ trình diện bậc niên trưởng (“đàn anh”) của mình, cho đúng hệ thống quân giai, cho đúng truyền thống quân đội.
Sẵn dịp, xin cho biết, cụ và 3 ông thánh kia cùng đoàn sai nha tùy tùng nằm trong loại thầy nào, liệt kê sau đây: thầy bói, thầy bùa, thầy cai, thầy cãi, thầy chùa, thầy cúng, thầy dòng, thầy đội, thầy đời, thầy đờn, thầy giáo, thầy gồng, thầy hù, thầy ký, thầy lang, thầy ngãi, thầy pháp, thầy thông, thầy thuốc, thầy tuồng…
Rất tiếc cụ đã không chuyển bài viết “trứ danh” của cụ cho báo Việt Luận (có mở một diễn đàn cho bạn đọc) để bá tánh không có computer có dịp thưởng thức lối suy nghĩ và cách hành sử cường điệu, vô bằng “cao cấp”, cỡ bậc “thầy” (thầy gì nhỉ?) của cụ. Mới hay lắm thầy ít thợ thường hư bột hư đường là thế!

2- Một điều đáng lưu ý: Không thấy Tam thánh và còm-pa-nhi tận tụy cứu giá lên tiếng về bài viết của cây bút Trương Minh Hòa liên quan tới quá trình sinh hoạt chính trị của vị “cao tăng-thần thánh” TPH trong nhóm Ấn Quang thiên cộng của vị “ngồi trên” Thích-Xuống-Đường mà “ngài” là một trong những thành phần nồng cốt; hoặc để phản bác TMH dựng đứng bôi nhọ “tôn sư” của mình thân cộng, hoặc để biện minh cho “ngài”, kiểu “gặp thời thế thế thời phải thế” -thế xu thời nhằm tạo cho mình một thế đứng, một số vốn chính trị hữu dụng sau nầy…Cho nên độc giả mất cơ hội đọc tới đọc lui các luận điệu cố hữu “gây chia rẽ trong Cộng đồng Người Việt Hải ngọai”, “phá hoại Phật giáo”, “bất kính với giới tăng ni”v.v…,vốn là các chiêu bài “ruột” của phe nhóm cứu giá!

3- Một điều nữa cũng đáng lưu tâm mà giới cầm bút nên “rút kinh nghiệm” (nói rập khuôn “quản giáo”) là đụng tới giới tăng lữ thường là đụng tới một vùng cấm kị (tabou) rất nhạy cảm (sensible) đối với những ai thường có khuynh hướng đồng hóa Cha hay Thầy với Chúa và Phật. Cho nên, cho dù chỉ làm công việc thông tin -trung thành với nhiệm vụ truyền thông- nhà báo hay nhà văn vẫn luôn đối diện với nguy cơ bị “trù đập”, đôi khi rất tinh vi, bị “trả đũa” hoặc công khai hoặc ngấm ngầm, tàn độc…Phe “bảo giá” gần như mặc nhiên chủ trương: Cấm “người ngoài cuộc” chỏ mũi vào chuyện “phật sự”, rọi đèn pha vào những góc cạnh u minh trong giới được mệnh danh “lãnh đạo tinh thần” của quần chúng. Hãy để yên cho chúng tôi “gói ghém nội bộ”, kín đáo giải quyết “trong vòng thân mật”. Mọi sự xin phó thác cho Đèn Trời soi sáng những vùng u ám của thế thái nhân tình…
Vả lại, công chúng cũng đã thấy nhan nhản một thực tế không chối cãi được: hai vụ gần đây nhứt được đưa ra ánh sáng -trong vô số vụ còn bị ém nhẹm trong bóng tối- một ở Cali, một mới đây ở Úc, cho dù các báo có phanh phui cách mấy các vụ bê bối trong hàng ngũ tu sĩ -tu hành hay tu xuất- các đương sự vẫn ngang nhiên tiếp tục chễm chệ “ngự” trong các kiểng chùa, như gia chủ đích thực, bất di bất dịch, không mảy may rụng tới một sợi lông…chưn! Nói cách khác, các đương sự khoái trá cười mỉa thách thức công luận. Và công chúng chỉ còn biết ngao ngán lắc đầu: “Quá ồn ào mà chẳng được chi!” (Beaucoup de bruit pour rien!).

5- C
huyện “Xì” tưởng thế đã êm, vì nghe đâu cả hai bên -bên muốn phơi bày sự thật, bên muốn “xù” thỏa thuận tạm ngưng tranh luận. Vả lại thiên hạ sự cũng đã bắt đầu bớt chú ý theo dõi vụ “xì” nầy. Bất ngờ, mới đây, một trong “Tam Thánh” -Nhất Thánh, xin lỗi, Nhất Gian, xin lỗi Nhất Giang- lại hâm nóng chuyện xì, dàn trải nỗi lòng “trăn trở” trên những 8 trang báo (Vụ bà Diệu Đức. Những chi tiết chưa hề được tiết lộ) trên Văn Nghệ, “Giai Phẩm Xuân Kỷ Hợi 2009”!
Thoạt nhìn tựa bài tưởng đâu lại có chuyện gì kinh thiên động địa nữa rồi! Hóa ra chẳng có gì mới lạ dưới ánh mặt trời. Đọc thoáng qua, tưởng đâu “ nhà báo ba chục năm hành nghề” ưu tư cho tiền đồ ngành truyền thông cùa Cộng đồng Người Việt hải ngoại hay quyết liệt xả thân bảo vệ Phật pháp (!?). Không, tuyệt nhiên không. Trái lại là đàng khác!
Lá thư của bà Diệu Đức gửi các báo và các tình tiết về vụ xì-căng-đan cũng như diễn tiến vụ xì nổ chiếm hầu hết các trang “trang trải”. Một phần không kém quan trọng dùng để “quật” bà Diệu Đức (phê bình cách cư xử của bà trong quyết định đưa vụ xì nầy ra ánh sáng), “tấn công” ông Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Việt Luận và một số cộng sự viên của tờ báo. Nhưng đọc kỹ hơn sẽ nhận ra thâm ý của tác giả bài viết: tự quảng cáo, tự đánh bóng, tự cho mình sáng giá, quang minh chính đại, cao cả!

a-Cho dù Nhất Giang có nói gì đi nữa, ông cũng không thể phủ nhận ông thiên vị, nếu không muốn nói là xả thân bênh vực cao tăng TPH, dù ông khẳng định 15 năm rồi không có liên lạc với vị hòa thượng nầy cũng như không lui tới chùa Phước Huệ. Cung cách cũng như những bài viết của ông đã nghiễm nhiên cho thấy như vậy.

b-Ông NG rất hãnh diện là nhà báo với ba chục năm hành nghề. Và tôi đã hết sức ngạc nhiên thấy ông phổ biến giấy chứng nhận đã học tập cải tạo, có dán ảnh, có đóng dấu CHXHCNVN do Cao Đăng Chiếm ký tên. Chả nhẽ ông ấy muốn lòe thiên hạ ta đã ở tù CS cả thảy 31 ngày, ta là hạ sĩ phục vụ tại nhật báo Tiền tuyến của QLVNCH? Chắc chắn ông NG phải biết các nhà văn, nhà thơ gốc Quân đội Phan Lạc Phúc, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Viên Linh v.v…TTT đã yên nghỉ. Có dịp tôi sẽ hỏi ý kiến PLP, TTY, VL…Không giấu ông NG, tôi cũng có một thời gian làm việc ở Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị…Chả nhẽ gia sản làm báo của ông NG được tóm gọn ở các giấy chứng nhận quái ác đó? Chả nhẽ đó là bằng cấp đã làm báo sao hở ông NG? Ông lại còn gièm xiểm mấy cái vụ “lon lá”, “bằng cấp”. Chi vậy? Bằng cấp không làm nên con người và lon lá không chứng tỏ tư cách của người đeo nó trên cầu vai. Tuy nhiên, vì việc phân công trong xã hội mà các thứ nầy phải có. Ông NG đã là quân nhân, tôi không cần dài dòng, chắc chắn ông đã rõ. Cũng có một điều không sửa chữa được: trước 75, tôi là hạ sĩ thì qua đây tôi không thể “cương” tôi là đại úy và ngược lại. Bằng cấp cũng vậy, trước 75 và sau 75 cũng cần minh bạch.
Chắc ông NG cũng đã nghe qua chuyện nầy: Bên nhà, hắn là trung-sĩ y-tá, sang đây hắn tự xưng là trung-tá y-sĩ! Đó mới là điều đáng nói thôi: nổ sảng, không có căn…
Chuyện hai ông “thánh” còn lại, Hồ Ông và Nguyễn Vy Túy, tôi xin miễn bàn vì không được đọc các bài của các ông ấy viết. Sở dĩ tôi có đề cập tới ba vị là vì quí ngài đã cùng ký tên một thông báo liên quan đến vụ Diệu Đức-Phước Huệ. Cũng như Nhị Giang là ai tôi cũng mù tịt. Cũng chẳng liên quan gì đến vụ DĐ-PH, ông nêu ra chỉ để so sánh tuổi với Dũng-Việt Luận. Chi vậy? Thừa giấy vẽ voi chăng? Hay để thêm nhưn thêm Nhị? Còn danh xưng Ba Ông Thánh không phải do tôi đặt ra, tôi chỉ thấy trên thư độc giả đăng trên Việt Luận.

c- Chuyện “lỗi lầm nghề nghiệp” mà ông NG gán cho “anh em bên Việt Luận” tôi muốn lạm bàn đôi chút. Một nhà báo “lão thành”, với ba chục năm trong nghề:
-đến tòa sọan một tờ báo khác cùng nhận được thư của một độc giả yêu cầu đưa ra ánh sáng một vụ xì căng đan liên quan đến một nhân vật của công chúng (personnage public) như báo của mình, tìm cách “đi đêm” để đưa nội vụ vào bóng tối,
-tiết lộ các câu chuyện trao đổi riêng tư giữa đồng nghiệp liên quan tới sống còn của các báo lien hệ,
-tiết lộ tên thật của một đồng nghiệp, cũng như mình, giữ trách nhiệm điều hành một tờ báo,
v.v…
có phạm lỗi lầm nghề nghiệp chăng? Và tung lên mặt báo những điều trên đây nhà báo “lão thành” nầy có đối xử tử tế, lịch sự với một đồng nghiệp nhỏ tuổi hơn mình mà mình muốn làm đàn anh hay bậc “thầy” chăng?

Một vài góp ý trên đây xin được chia sẻ với bạn đọc Việt Luận để tạm kết thúc chuyện dài nhân dân tự vệ “báo chí Việt ngữ hải ngoại”…

Thôn trang Rêu Phong, Xứ Tuyết, Mùa Giáng Sinh 2009
Lê Tấn Lộc

Về những mùa Giáng Sinh


Tản mạn
Về những mùa Giáng Sinh

*Giáng Sinh trong lao tù.

Người nữ “phạm nhân” bên kia vách conex “kỷ luật” của trại cải tạo Hàm Tân-Z30D cất tiếng hát “Đêm Thánh Vô Cùng” trong đêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời với anh chị em đang chịu trăm cay nghìn đắng, khổ nhục đoạ đày trong vòng rào kẻm gai do lũ vô thần tạo dựng khắp nơi khi thành phố Sài Gòn mất tên…Bên nầy vách, tôi tiếp sức giọng ca tuy thánh thót nhưng hầu như hụt hơi vì thiếu dinh dưỡng trầm trọng; cũng trong tình trạng thiếu hơi. Conex kỷ luật được ngăn đôi, nam một bên, nữ một bên. Không thiếu conex, nhưng thiếu tình người: bọn cai ngục muốn giảm thiểu tối đa diện tích chỗ nằm và dung lượng không khí cho những người bị tống vào conex mà chúng gán tội “thiếu tinh thần giác ngộ kách mệnh, thiếu thiện chí học tập”.
Người nữ bên kia vách nghe đâu thuộc lực lượng Phục Quốc, tôi, sĩ quan QLVNCH. Một nam bên nầy, một nữ bên kia, đói, khát, ngày nóng như điên, đêm lạnh như cắt, “độc thân tại chỗ” như mọi quân, cán, chính và thường dân bị cho đi “tập trung cải tạo”, cất tiếng hòa ca đón Đêm Noel 1977 không ánh đèn, không trăng sao, trong một khám tối tí teo nằm trong nhà tù nhỏ đặt trong nhà tù vĩ đại cho cả nước. Conex kỷ luật, phân nửa nằm bền nầy, phân nửa nằm bên kia rào ngăn chia hai khu nam, nữ “phạm nhân”.
Bài thánh ca cùng xướng tạo cơ hội tốt cho chúng tôi đồng cảm thân phận tù đày, xa cách mọi người thân. Chắc hẳn hai đứa đều có tâm sự riêng…Tôi buồn rầu nghĩ tới một người rất xa xưa, chỉ một lần chớp nhoáng xuất hiện trong khuôn viên đại học Xứ Anh Đào năm nào rồi ra đi biền biệt, giờ đây xiêu lạc hà phương -biết đâu chẳng cùng chung số phận tù đày như người nữ bên kia vách- khe khẻ ứng khẩu, ngâm nga:
Thôi em về với chiêm bao
Vầng trăng đơn chiếc dầu hao nửa đèn
Mình tôi vò võ đêm đen
Nằm trên sắt lạnh nghe thèm thịt da

Bất ngờ bên kia vách người nữ, có lẽ cùng tâm trạng, tiếp nối dòng thơ bất chợt:
Thôi em về với xót xa
Tình mươi năm cũ giờ qua mất rồi
Bây giờ mỗi đứa mỗi nơi
Nhớ nhà tê tái vang lời thánh ca

Cảm kích, hứng khởi, tôi cất cao giọng hát:
Ave Maria! (Ave Maria!)
Cầu xin Đức Mẹ (Cầu xin Đức Mẹ) ban cho Ơn Lành…

Cùng lúc chuông nhà thờ ngân nga ngoài vòng kẻm gai của trại tập trung lao động khổ sai, có lẽ từ một giáo đường hoang vắng, cô quạnh vì thời cuộc…
Chuông nhà thờ đổ mệt
Tượng Chúa gầy hơn xưa
Chúa bây giờ có lẽ
Rơi xuống trần gian mưa

Hình như, cô nàng “không tên” được ra khỏi conex trước tôi. (Bài thơ ứng khẩu liên hoàn nầy, tôi phổ nhạc sau đó, tựa đề “Đêm nghe Thánh ca”). Chưa kịp hỏi tên nhau cũng như chưa được một lần thấy nhau. Cho nên, với cô nàng tôi cũng là anh chàng “không chân dung”!
Vài tháng sau, toàn bộ nữ “phạm nhân” nầy được chuyển đi nơi khác. Nhìn những nữ chiến hữu nối đuôi leo lên xe tôi nghĩ rằng có lẽ cũng như tôi tự hỏi nàng là ai, nàng cũng sẽ tự hỏi chàng là ai trong đám con trai đứng lố nhố sau vòng kẻm gai chứng kiến nàng và các bạn đồng tù chuyển trại…

**Giáng Sinh trên đất khách.

Đám công nhân thuộc Nghiệp đoàn tài xế bus, métro, Công Quản Chuyên Chở của Thành phố Montréal -thành phần được ưu đãi quá mức- “chung thân bất mãn”, lúc nào cũng chực chờ làm áp lực thường xuyên đòi hỏi tối đa đặc quyền đặc lợi, nhưng lợi dụng giới sử dụng phương tiện chuyên chở công cộng làm con tin để các yêu sách của họ được nhanh chóng thoả mãn. Và họ có thói quen “chiến thuật” là đình công vào…mùa đông băng giá, lúc hàn thử biểu tuột xuống hơn -30 độ C! No bus, no metro giữa mùa tuyết băng thần sầu quỷ khóc, quí vị thử nghĩ!
Năm đầu tiên đặt chân trên vùng đất tạm dung, chân ướt chân ráo, tôi đơn độc lầm lũi mưu sinh, đường sá bình thường đã mù tịt, mùa đông lại càng mù mịt lối đi lối về. Trăm sự chỉ còn biết trông nhờ vào bus, métro. Thế mà mấy ông cố nội “siêu” tài xế lương lậu hậu hỉ lại nỡ nhẫn tâm “chơi khâm” dân ngu khu đen lặn lội trong băng tuyết với đồng lương tối thiểu nuôi sống gia đình trên xứ lạ! Lại còn thêm cái nạn kỳ thị ngấm ngầm của dân bản xứ: lên bus hỏi về các trạm ngừng để dễ tìm đường, hỏi tiếng Pháp, quan tài xế trả lời tiếng Anh và…ngược lại. Ra cái điều bọn immigrants chúng bây không xứng đáng sử dụng ngôn ngữ của Molière, Shakespeare…
Mùa đông năm ấy, 28 năm về trước, nơi tôi tìm được việc làm là vùng nói tiếng Anh. Vào đúng ngày Noel tới phiên tôi trực cơ quan. Và đúng ngày đó có băng giá trơn trợt (verglas) mà không có bus, métro! Ra “đứng đường” giơ ngón tay cái đón xe xin quá giang, dưới cái lạnh nứt đá -32 độ C (-42 độ C với ảnh hưởng gió!) chân tay, mặt mũi tôi không còn cảm giác. Tôi có cảm tưởng sắp thành tượng băng như binh lính của Nã Phá Luân đệ I trong lần lui quân thảm bại từ Nga (Retraite de Russie) năm xưa!...Nhiều xe phớt tỉnh chạy qua. Một số dừng lại, ngôn ngữ bất đồng: Ả rập, Tàu, Khờ-me, Lào, Ấn Độ, Phi Châu, v.v…chỉ thạo tiếng Anh, mà tôi thì bập bẹ Ăng-lê, không đủ chữ diễn tả rõ yêu cầu. Sau cùng một ông da trắng dừng xe, tôi vội vã sấn tới:
-Ông nói tiếng Pháp được không? (Do you speak French?)
-Tôi là người Pháp mà ông! (Mais je suis français, monsieur!)
-!!!

Hết phiên trực, tôi lại cuốc bộ ra đường cái đón xe xin quá giang đi lễ chiều ở nhà thờ Marie-Reine-du-Monde, trung tâm thành phố Montréal. Giáo đường nguy nga, đồ sộ nhưng…trống vắng! Vị chủ tế trấn an giáo dân, vì thời tiết quá khắc nghiệt, ai không đến dự Thánh lễ được sẽ không có tội.
Tan lễ, một lần nữa tôi lại phải “đứng đường” dưới cơn bão tuyết càng lúc càng dữ dội xin quá giang về nhà, ở tận cực bắc thành phố! Lúc di chuyển ra lộ cái, từng cơn giông cực mạnh xô tôi dính cứng vào hàng cây trên lề đường…
May thay, một linh mục từ trong nhà thờ thấy tôi nguy khổn vội chạy ra cùng với hai người giúp lễ kéo lôi tôi vào trong thánh đường…chập chộ cho hoàn hồn với ly cà phê nóng hòa cognac!
Linh mục đưa tôi về tận nhà bằng xe riêng. Ngài mở radio: nhiệt độ tại phi trường Dorval là -38 độ C, nhưng với sức gió, hàn thử biểu đã thực sự tuột xuống mức độ ghê rợn -52 độ C. Xướng ngôn viên nhắc nhở mọi người, nếu đang ở ngoài trời nhất thiết phải cử động, nếu không sẽ…chết cóng tại chỗ!
Tôi lắc đầu ngao ngán thở dài nghĩ tới bài ca mừng Noel: Hoan hô gió! Hoan hô gió! Hoan hô gió…mùa đông! (Vive le vent! Vive le vent! Vive le vent d’hiver!).
Hết ý!

Thôn trang Rêu-Phong, Xứ Tuyết, Giáng Sinh 2008
-Lê Tấn Lộc_

Thursday, December 4, 2008

Nhìn những mùa xuân đi...

Nhìn những mùa xuân đi...




Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Riêng ta với ngươi buồn vậy thay!


Tân mở quyển nhật ký may mắn thoát khỏi cơn truy lùng tìm diệt “tàn tích đồi trụy của Mỹ Ngụy” do đám công an văn hóa kách mệnh Bắc Bộ Phủ chủ xướng, dưới sự tiếp tay điềm chỉ của bọn trí thức thiên tả dỏm, theo đóm ăn tàn, tục gọi lũ kách miệng ba mươi tháng tư…Tất cả hành trang vượt trùng dương tìm tự do của Tân đã gửi lại trong lòng biển cả, quyển nhật ký là “tàn tích” duy nhất Tân còn giữ được trong tay, sau cơn hồng thủy trên quê hương tan tác và sau những đợt sóng thần đã cuốn phăng hàng muôn vạn sinh linh khốn cùng khỏi những con tàu định mệnh -những con tàu tưởng đã giúp họ thoát được kiếp lưu đày trên chính đất nước của họ- để dìm sâu họ xuống đáy biển ngàn đời u tối, giá băng …
Quyển nhật ký đã theo Tân suốt thời gian nhục nhằn bức bách trong lao tù CS, tiếp tục bầu bạn với Tân ngày Tân rời trại giam nhỏ bước vào nhà tù lớn Xã Hội Chủ Nghĩa, cùng Tân hành trình lướt sóng biển Đông trôi dạt vào đảo Galang “cửa ngõ của Tự Do và Tình Người” trước khi Tân được Xứ Tuyết, vì lòng nhân đạo dang tay đón nhận, cưu mang đùm bọc cùng với hàng hàng lớp lớp thuyền nhân Việt Nam liều chết vượt thoát gông cùm của chính đông bào họ đi tìm đất sống...
-o-o-o-

Thân đất khách một mình xui nhớ
Hương đêm dần dần nở khúc thương…


*Xuân “Cách Mạng” (Ất Dậu 1945)
Những tầm vông vạt nhọn
những bầy chân đi trần
những lỗ mắt ngời ngời
những rừng đèn chai đứng dậy trong đêm khuya
đòi giải phóng
tự do
độc lập

Ngày ấy, tôi và Kiệt -đứa em út kế tôi- chuẩn bị cắp sách đến trường, bỗng dưng nghe tiếng giày đinh nện đều trên mặt lộ Lamothe de Carrier, trước tiệm mộc của gia đình, như ai đang lắc một xô nước đá nghiền nhỏ: rộp! rộp! rộp! rộp!
Từng đoàn người mặc quân phục, mũ lưỡi trai ba mảnh vải buông thõng che tai và ót, đội ngũ chỉnh tề, súng trường cầm tay -lưỡi lê tuốt trần cắm trên đầu súng- chiếm trọn mặt đường, nối đuôi nhau chạy lúp xúp về hướng Toà Bố (Toà Hành Chánh với Dinh Tỉnh Trưởng) và khu Cư Xá của Tây “thực dân”…
Khi đoàn quân “con mặt trời” xâm chiếm Bạc Liêu (là xứ quê mùa, Dưới sông cá chốt trên bờ tiều Châu) khuất dạng trên bến xe đò, cuối đường La-mốt-đờ-ca-ri-dê, một số dân bản xứ túa ra mặt lộ, tranh nhau thu lượm quân trang quân dụng -kể cả súng ngắn- rơi rớt trên đường tiến quân của quân đội Nhật hoàng; những thứ sau nầy được trang bị cho kháng chiến quân chống Pháp. Biến cố “Nhựt Bổn đảo chánh”, ngày 9 tháng 3 năm 1945 khơi mào cho khói lửa nhen nhúm, để rồi không bao lâu lan rộng khắp quê hương tôi…Vài mươi thi thể ông Tây bà Đầm bị cứa cổ nằm rải rác quanh hồ tắm công cộng, máu động vũng tuôn chảy nhuộm đỏ mặt hồ. Người bảo Nhựt giết, kẻ bảo đồng bào ta trả thù đám Tây tà lâu nay hà hiếp dân lành.
Khi Đệ Nhị Thế Chiến chấm dứt với sự đầu hàng của Nhựt, Pháp trở lại Đông Dương. Họ không quên đồng bào họ bị sát hại, thẳng tay trừng phạt đồng bào ta để báo thù. Có thể đó là một trong những nguyên nhân chính đưa đến “Cách Mạng Mùa Thu, toàn quốc kháng chiến”. Với chủ trương ”vườn không nhà trống”, nhà cầm quyền lúc bấy giờ kêu gọi dân chúng tản cư:
Lệnh truyền kháng chiến vô bưng,
Ruộng vườn triệt phá giặc đừng thu quơ

*Xuân Khói lửa (Bính Tuất 1946)
Kẻ già cõng người bồng con dại
Dân tản cư ùn chạy bỏ thành

Gia đình tôi hưởng ứng lời kêu gọi, tạm lánh nạn về Trà Kha, Trà Khứa, rồi rút xa hơn nữa về Béc-Heng, một vùng đất hoang vu, nơi làng Việt tiếp cận sóc Miên, rất xa Châu thành Bạc Liêu. Hai anh tôi, người cầm súng giết giặc, kẻ xung vào đội Võ Trang Tuyên Truyền, động viên tinh thần đồng bào ủng hộ kháng chiến; chị tôi gia nhập đoàn Nữ Cứu Thương. Tôi và cậu em út xung vào đội văn nghệ lưu động “giúp vui chiến sĩ và đồng bào”, nhân tiện cổ võ họ đóng góp tiền bạc, quần áo, thực phẩm “nuôi quân”. Hai anh em tôi vừa ca vừa múa, quyên tiền như sơn đông mại võ: Mừng xuân ánh sáng bốn phương (ánh sáng bốn phương) tràn lan đất nước (tràn lan đất nước) ánh sáng ngày xuân (ánh sáng ngày xuân) chiếu ngàn năm…Xuân đầu tiên của chúng tôi trong bưng biền tràn ngập khói súng, bom đạn thường xuyên gieo rắc tang tóc, điêu linh…
Thuở ấy đám con nít chúng tôi còn quá non trẻ để thắc mắc vì sao lá cờ vàng ngôi sao đỏ của Thanh Niên Tiền Phong bỗng nhiên một sớm một chiều biến mất và cờ đỏ ngôi sao vàng của Việt Minh rộ nở khắp bưng biền, nơi dân chúng lánh nạn ẩn náu sau khi rời bỏ kinh thành do bộ máy cai trị của thực dân Pháp kiểm soát.
Theo đà truy lùng, càn quét của lính Tây, gia đình tôi chất nhau lên ghe chạy giặc, cùng với đoàn ghe tản cư chèo miết tới Chắc Băng, Cạnh Đền, gần miệt U Minh. Tại đây, một cán bộ Việt Minh đề nghị tôi ca diễn bài hát “Mắng Lê Tắc”. Tôi thích chí “lột hết khả năng diễn xuất” bắt thằng em út tôi quì gối thủ vai Lê Tắc nghe tôi hùng hỗ miệt thị: Mi nghe chăng hỡi ai tham mồi phú quí quên non sông/ Hãy nghe đây lời ta mắng muôn năm/ Sao nỡ đành đem người ngoại quốc ác tâm /xâm chiếm quê hương nhà sát tàn nòi giống?/ Loài bán nước/ loài buôn dân/ loài phản quê hương/ Nguyền rủa tên bọn mi khắp nơi muôn đời…Dân tản cư hoan hô nồng nhiệt, hăng hái ủng hộ quỹ “nuôi quân”.
Sau buổi văn nghệ “lạc quyên”, cán bộ cao cấp kể trên nhiệt liệt khen tặng và thuyết phục (đúng hơn, khuyến dụ) tôi nối chí “thiếu niên anh hùng kháng chiến” Lê Văn Tám tẩm xăng châm lửa, nhào vô kho đạn Thị Nghè cho nổ tung! Tôi đã xiêu lòng muốn nghe theo, chờ “ngài” cán bộ giao công tác “hy sinh cho kách mệnh”. May thay, trước vô số vụ cuồng sát đồng bào tản cư bị tố khổ Việt gian (cho đi mò tôm, mổ bụng dồn trấu, chôn sống, thiêu sống, xử trảm rồi bêu đầu thị uy, đập đầu thả trôi sông v.v…) gia đình tôi kinh hoàng tìm đường hồi cư, chèo ghe về hướng Rạch Giá để tránh bị nghi “trốn về thành”, bỏ lại sau lưng hàng vạn đồng nghiệp, láng giềng cùng đi tản cư trước đây, lớp bị độc đoán hành huyết vô căn cứ, lớp bỏ mình trong các cuộc giao tranh với lính Tây vì cái mà họ tin tưởng là… “lý tưởng cách mạng”. Cũng như tôi đã vội tin vào sự hy sinh cao quí của anh hùng Lê Văn Tám cho “sự nghiệp kách mệnh” mà mãi sau nầy ai ai cũng rõ là một bịa đặt hoàn toàn của đảng Lao Động VN thời đó!


Một mùa xuân đi qua, cuốn theo hàng muôn vạn sinh linh đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi tầng lớp…Xém chút đã lôi theo cậu bé chưa hưởng trọn vẹn 11 mùa xuân, được nhồi nhét chí cốt lý tưởng anh hùng cách mạng…dỏm!

*Xuân kinh hoàng (Mậu Tý 1948)
Tiếng hét thảm thiết chạy dài từ đầu kinh đến cuối kinh trong
đêm bất tận
“aaaaaa!!!Trời ơi đừng giết tôi! aaaaaa!!!...”

Chiếc ghe tam bảng, căn nhà lưu động của gia đình tản cư chúng tôi tròng trành theo lượn sóng nhấp nhô dưới ánh trăng lưỡi liềm nhỏ rít, yếu ớt của đêm mùng ba Tết. Ăn cơm tối xong, cả nhà chuẩn bị lên bờ thăm viếng bà con tản cư thì bỗng nghe tiếng loa kêu gọi đồng bào tập trung trước sân đình làng Hốt Hỏa (địa danh một vùng hẻo lánh thuộc tỉnh Rạch Giá) coi “chặt đầu Việt gian”! Ba tôi vội thổi tắt ngọn đèn dầu leo lét trong khoang ghe, ra dấu cho cả nhà nằm im, như tất cả đều đã ngủ say. Ông không muốn chúng tôi chứng kiến thêm lần nữa cảnh máu đổ, đầu rơi của đồng bào mình dễ dàng bị ghép tội Việt gian, một hiện tượng quá ư thịnh hành trong thời buổi nhiễu nhương, củi quế gạo châu…
Tiếng chân người thình thịch dẫm trên con đường đất ven sông, dẫn tới nơi hành hình vang dội trong đêm thanh vắng. Ánh đèn chai cho thấy 4 người đàn ông bị trói thúc ké, đầu bù tóc rối, mặt mũi sưng húp, tím bầm, khập khễnh lê bước. Theo sau là đoàn người hung hãn, áo quần đen, khăn rằn quấn đầu, dao mác, gậy gộc tua tủa. Tôi thoáng thấy chú Tư Hơn, tay lăm lăm con dao phai, chỉa vào lưng các tử tội, thúc họ bước nhanh. Chắc hẳn chú được chỉ định làm đao phủ thủ. Không thể ngờ con người rất hiền hoà, luôn rộng tay đón nhận, giúp đỡ dân tản cư, sẵn sàng cho họ tá túc trong nhà mình, buổi đầu họ chân ướt chân ráo đến nơi tạm cư lánh nạn, đêm nay lại đằng đằng sát khí đến thế dưới ánh đèn chai bập bùng…
Từ pháp trường vang lên từng chập tiếng la thất thanh chen lẫn tiếng nguyền rủa của một tử tội: “Tổ cha tụi bây! Bây chém tao hơn chục nhát rồi mà đầu tao cũng chưa rơi! Trời ơi là trời!”…
Con dao cùn làm cá chém đến chiếc đầu thứ tư phải cứa
qua cứa lại nhặp nhằn
tiếng hét thảm thương của con heo bị thọc huyết túa ra trên
kinh dài hỗn loạn
họ không có thì giờ để rèn dao giết người

Chợt có tiếng la ó kêu cứu ầm ỉ chen lẫn tiếng vật lộn huỳnh huỵch… Dưới ánh đuốc chai ma quái một cảnh tượng ghê rợn từ nay trở đi sẽ ám ảnh tôi suốt đời: Đao phủ thủ Tư Hơn, mắt đỏ ngầu, sùi bọt mép, quơ con dao cùn vấy máu, hét to: “Chém hết tụi Việt gian! Chém hết tụi Việt Gian!”, rượt chém loạn đả đám đông. Bọn người quấn khăn rằn tức tốc vây chặt tên điên loạn, chỉa súng buộc hắn buông dao, hè nhau đè hắn xuống đất trói gô. Chém xong tử tội thứ tư, chú Tư Hơn, một nông dân xưa nay hiền lành, chất phác, hiếu khách đối với cư dân vùng đất hiền hoà Hốt Hoả, bùi tai vì “sự nghiệp kách mệnh của nhân dzân ta”, phút chốc đã say máu, biến dạng thành một phần tử cuồng tín, khát máu, mù quáng trung kiên với “kách mạng”…
Đêm trở lại yên tĩnh. Một mùa xuân vấy máu vừa lố dạng, hứa hẹn nhiều máu lửa càng lúc càng cuồng nhiệt, ghê rợn. Bốn chiếc đầu lâu mắt trừng, miệng há lăn lốc trên mặt đất loang lổ vết máu khô quánh, chờ được mang đi bêu chốn thị tứ để hù dọa những ai không theo cách mạng. Sân đình làng lẽ ra nồng nàn hương khói lại sặc mùi máu tanh!

*Cuối Xuân Mậu Tý,
hồi cư bàng hoàng …

con chim nhỏ bé dám ca câu sấm thì:
Cuối xuân năm Mậu Tý tướng quân mang kiếm về…

Đêm Giao thừa không tiếng súng. Lác đác vài tiếng pháo nổ đì đẹt, gọi là cho có vẻ giữ lệ tống cựu nghinh tân. Quê hương vẫn còn chìm trong khói lửa ngút ngàn. Bất ngờ… người anh đầu đàn của tôi rón rén xuất hiện giữa lúc gia đình đang quay quần bên mâm cơm đạm bạc chờ đón tân xuân. Mọi người lặng lẽ rơi nước mắt, ôm chầm lấy anh, người anh đầu đàn trở về từ bưng biền, hốc hác, thất thần…Nhắp chung rượu xuân cho cơ thể bớt co thắt, anh tôi cố gắng bình tĩnh kể:
“Thưa ba má! Con bất hiếu mang tấm thân tàn ma dại về đây, sau khi lùng kiếm không kết quả đứa em con thất lạc sau vụ Tây oanh kích vào đội Võ Trang tuyên Truyền của nó, là vì con muốn mọi người trong gia đình biết qua những thử thách đau thương mà con đã trải qua, khiến con không còn lòng dạ nào chiến đấu dưới sự chỉ đạo của nhóm cán bộ khát máu đang tự tung tự tác trong bưng biền…
Đêm mùng ba Tết vừa rồi, tại Chắc Băng, bọn nầy phóng hoả thiêu sống cả ngàn người Việt, Miên cùng toàn bộ gia đình họ, bị dồn nhốt chật cứng một lẫm lúa khổng lồ vì tình nghi họ hợp tác với Tây… Tiếng kêu khóc van xin đinh tai điếc óc, mùi da thịt khét lẹt làm mọi người chứng kiến màn nướng thịt người nghẹt thở, té ho sù sụ! Con và anh em trong đội của con bị bọn chúng tước khí giới trước khi chúng thẳng tay tàn sát đồng bào…
Họ không có thì giờ để cắt cổ từng người một…
Hôm sau, đêm mùng bốn, tại Cạnh Đền, bọn nầy bắt cả đội tụi con áp tải hơn 500 người bị trói thúc ké, bịt mắt, ra bờ sông cho chúng dùng phảng chém đầu, bồi thêm chày vồ… Suốt đêm, con phải sống với tiếng người ơi ới kêu la, chửi bới vì chưa thiệt chết đã bị tống xuống sông cho dòng nước cuốn phăng!... Họ không có thì giờ đào những lỗ huyệt tập thể…
Và mùi máu tanh đã theo con chui vô nóp ngủ, liên tiếp nhiều đêm liền. Con phát điên. Con phải vượt khỏi cõi âm ty do bọn nầy tạo dựng trên làng xóm hiền hoà, nhân ái của chúng ta, nếu con không muốn loạn thần kinh giết hết bọn chúng hoặc bị lây bịnh giết người không gớm tay như chúng!...
Những người mất đầu vì cuốn văn phạm ngoại ngữ
Những người bị mổ bụng vì mặt biên áo trong có in ba màu

Có tiếng kêu mở cửa gấp rút: Hai người mặc đồ đen, một nam, một nữ dìu một bộ xương người còn thoi thóp thở …Đứa em Võ Trang Tuyên Truyền của anh cả tôi cuối cùng còn sống sót tìm về tổ ấm! Cả nhà xúm lại đỡ anh xuống ghế bố. Anh nằm im lìm, không còn hơi sức chào hỏi gia đình. Bịnh kiết lỵ đã tước khả năng đi đứng của anh.
Người con gái vắn tắt cho biết cô đã tháo cũi sổ lồng cho người yêu và ông anh tôi thoát khỏi trại giam tử tội chờ ngày thọ hình. Anh ấy bị kết tội đã lên tiếng phản tuyên truyền chủ trương “tận diệt Việt gian” của kách mệnh, sau khi chứng kiến hàng trăm vụ xỏ xâu đồng bào, kết thành từng bè cho đi “mò tôm”…
Lũ tôm chực sẵn bên bờ sông
Lũ tôm-ăn-thịt-người
Lũ người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người
Lũ người-ăn-thịt-người-ăn-thịt-tôm-ăn-thịt-người

Người yêu của cô gái đột nhiên ú ớ bật khóc! Cả gia đình sững sờ nhận ra… chú chín Xuân của chúng tôi, câm điếc từ thuở lọt lòng mẹ. Chú theo kháng chiến giúp khuân vác lương thực, tãi đạn. Một hôm, giữa đêm chú ra bìa rừng hút thuốc giải khuây, đi lạc qua khu vực đóng quân của một đơn vị khác. Lính gác hô to: “Đứng lại! Dơ tay lên!” Chú tỉnh bơ xâm xâm tiến bước…Hỏi mật hiệu, chú vẫn đường ta ta cứ đi… Bị bắt về trạm kiểm soát thẩm vấn, chú chỉ biết cười cười phát âm “ụ à ụ á dễu dễu ”. Tình nghi chú dọ thám cho Tây, họ tra khảo chú chết đi sống lại đôi ba lần…
Người câm bắt buộc phải trả lời
những tội phạm họ không bao giờ đủ khả năng nghĩ tới
Người điếc bị đánh đơ xương sống
vì không nghe được người ta hỏi gì

Một mùa xuân đẫm máu nữa lại vừa âm thầm đi qua, lôi theo sự ê chề, thất vọng của những người tưởng rằng mình tranh đấu vì độc lập, tự do, hạnh phúc cho giống nòi… Chiêu bài giải phóng đất nước khỏi ách tham tàn của thực dân Pháp do nhóm chỉ đạo đảng Lao Động VN rầm rộ hô hào, thực chất chỉ giản dị là một cuộc đấu tranh giai cấp rập khuôn Mác-Lê, nhằm tiêu diệt mọi giai cấp, chuẩn bị cho giai cấp vô sản độc quyền chuyên chính!

Cuối xuân năm ấy, cả gia đình tôi đau lòng rời bỏ “xứ quê mùa” yêu thương đang chìm đắm trong lửa đạn tơi bời, tái định cư tại Vĩnh Long, một thị trấn bốn bề có sông rạch bao quanh. Cậu bé 11 tuổi, năm xưa suýt trở thành “anh hùng” kiểu Lê Văn Tám…dỏm, ngoan ngoản trở lại băng ghế nhà trường, dốc lòng chăm chỉ học hành. Các hoài niệm thương động thời tản cư dần dà đi vào quên lãng…
Tuổi thơ vẫn sẵn lòng quên những phát súng những mũi
dao của bọn người lớn

Cho tới khi cậu bé chuyển sang trường Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) tiếp tục học, có dịp chứng kiến các cuộc biểu tình “chống bắt lính” của học sinh, *Xuân Giáp Ngọ (1954). Các hoài niệm đau thương tưởng đã phôi pha theo năm tháng lại chập chờn trong đầu cậu. Xảo thuật kích động học sinh bãi khóa khiến cậu có cảm tưởng “đã thấy qua rồi” (impression du déjà-vu): Trước mắt cậu, nhóm học sinh cầm đầu vào trường xách động các lớp bỏ học , các thầy cô ngưng giảng dạy cho học sinh tham gia biểu tình (thuở ấy chưa có danh từ “xuống đường”) hành sử y như các cán bộ Việt Minh hô hào đình công, bãi thị ở Bạc Liêu, năm nào! Tình cờ cậu khám phá một giáo sư của cậu là linh hồn của cuộc biểu tình chống bắt lính nầy. Ông thầy nầy sau đó đứng hẳn về phía “kách mệnh”, sau vụ Tết Mậu Thân…
*
* *
*Xuân “Thanh Bình” mong manh (Kỷ Hợi 1959)

Ngày xưa em qua đây
Cho tình tôi chớm nở
Như chân chim muôn thuở
In mãi bậc thềm rêu

Chiếc xe lửa phì phò phun khói đen từng cụm, nặng nhọc bò lên triền núi gần như thẳng đứng trên đường rầy có răng cưa (crémaillère) móc giữ cho khỏi tuột dốc. Chánh phủ tiết kiệm công quỹ, trưng dụng một toa xe đưa 30 sinh viên ban Triết Đại học Sư phạm Sài Gòn, giữa niên khóa, lên Đà Lạt tiếp tục học trình, thay vì cấp kinh phí cho họ đi xe đò, đắc hơn đi tầu hoả. Cảnh trí chung quanh vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Hứng chí, tôi cầm guitare đệm nhạc cho cả nhóm hòa ca vang rền… Sau hiệp định đình chiến Genève, ngày 20 tháng 7 năm 1954, miền Nam liên tiếp hưởng được mấy mùa xuân không tiếng súng, an bình, thịnh vượng…
Anh chị em sinh viên chúng tôi vừa ăn Tết xong ở Sài Gòn, một cái Tết rất vui nhộn, có pháo nổ, có lân múa, có mai vàng, dưa hấu, bánh tét, bánh chưng, kẹo mức, hoa quả v.v…Nhộn nhịp vô cùng. Đà Lạt có vẻ quá yên tĩnh đối với chúng tôi. Nhưng thành phố cao nguyên mù sương nầy lại là nơi hẹn hò lý tưởng của những cặp tình nhân lãng mạn, là nơi gặp gỡ tuyệt vời của tao nhân mặc khách…Ôi! Đà Lạt là thơ… Ai lên xứ Hoa Đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi…
Hoàng,
bạn cùng khóa, ban Pháp văn và tôi quyết định rời khu nội trú Viện Đại học Đàlạt, dọn ra thuê chung một gác trọ trên đường Phan Đình Phùng cho được thoải mái hơn. Hoàng thích vẽ, tôi thích nghe nhạc cổ điển Tây phương nên khó tuân giữ giờ giấc qui định trong khu nội trú. Vả lại hai đứa thường lang thang trên đường phố Đàlạt về đêm tìm hứng -Hoàng để vẽ, tôi, để suy gẫm- khi trên đồi thông, lúc bên bờ hồ…Chiếc Vespa tôi chở theo trên xe lửa quá đắc dụng cho những cuộc dạ hành không giờ giấc nầy. Cuộc sống hai gã con trai độc thân bình lặng trôi đều cho đến lúc một giai nhân mà dung nhan và dáng dấp phảng phất ít nhiều phong thái của nữ-bá-tước-chân-trần (la comtesse-aux-pieds-nus) Ava Gardner xuất hiện như giấc mơ tiên nữ giáng xuống trần, tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ…Than Thở khi mặt trời lấp ló sau đồi chiều vàng…
Tú, tên giai nhân bên bờ hồ, khẽ gật đầu đáp lời chào xã giao của Hoàng, lơ đễnh liếc nhìn tôi tần ngần dựng chiếc Vespa, chưa biết có nên bước tới làm quen với người em sầu mộng hay không. Nhìn tôi bối rối thấy rõ, Hoàng nắm tay tôi kéo tới trước người đẹp giới thiệu:
-Đây là Tú, láng giềng của tao ở Phú Nhuận. Còn thằng thỏ đế nầy là Tân, “triết-gia-phù-thủy-tập-sự”, bạn cùng trọ với tôi. Mầy chào Tú đi chứ! Làm gì đứng chết trân như trời trồng vậy! Bị sét đánh á khẩu hả? Đúng là dân philo-folie! Mời Tú lên ngồi giữa hai thằng tôi. Lâu lâu chở ba giỡn mặt chính quyền chơi. Đèo Tú về nhà thay đồ, mình đi kiếm gì ăn cho vui.
Cố tập trung lái, tôi vẫn không thể không bồn chồn lo lắng hai thằng làm gì có tiền trả bữa ăn với Tú. Tiền trọ vẫn chưa thanh toán, chờ lãnh học bổng hàng tháng. Đã thế Hoàng còn đề nghị rủ nguyên băng Lưu-Quang-Trinh-Tấn-Thu đến nhà hàng Chic Shanghai “chung vui”! (Vui chung rồi mạnh ai nấy trốn chăng?) Đúng là điếc không sợ súng!

Cả bọn, trừ tôi lái xì-cút-tơ, đạp xe tới biệt thự Rosalie, cuối đường Phan đình Phùng. Y như đoàn quân hầu cận chuẩn bị “hộ giá” Công Nương! Tú đứng chờ sẵn trước cổng. Đột nhiên một chiếc Falcon bóng loáng lao thẳng vào chúng tôi, thắng gấp. Một gã đàn ông ăn mặc sang trọng, bước xuống xe, hầm hầm xốc tới kênh kiệu nghinh ngó bọn tôi, đoạn tiến về hướng giai nhân, choàng vai mỹ nhân, định dìu lên “long xa” Cờ Hoa. Tú trừng mắt hất tay gã, bước thẳng về chiếc Vespa, ngồi hẳn lên yên sau. Tôi gấp rút nổ máy phóng đi, đoàn xe đạp nối đuôi như một đám rước! Gã đàn ông sạm mặt, cung tay quơ quả đấm về hướng tôi…
Suốt bữa tiệc, Tú gần như hoàn toàn im lặng, thỉnh thoảng mỉm cười, nụ cười “bí ẩn” của La Joconde, nhưng đôi mắt không cười theo, luôn trầm buồn, xa vắng. Đôi lúc nhìn lén nàng, tôi ngờ ngợ Tú cũng có nhìn trộm tôi! Mắt, môi Tú hình như toát ra “cái gì đó” xoáy sâu tâm can người đối thoại, dù Tú hầu như không bao giờ xen vào câu chuyện trao đổi giữa chúng tôi. Mãi nghĩ vẩn vơ, tôi quên mất bận tâm tiền đâu trả bữa ăn! May thay, hình như tất cả hàng quán trên miền đất lạnh nầy đều được yêu cầu “ghi sổ” mọi chi tiêu của nữ-bá-tước-chân-trần chuyển về biệt thự Rosalie: Tú là người duy nhứt thừa hưởng tài sản kếch sù do ông nội để lại theo di chúc…
Hôm sau, Tú hẹn chúng tôi ở Café Tùng. Không hiểu vì sao chỉ mình tôi đến điểm hẹn. Chúng tôi vừa bước ra cửa quán, gã đàn ông hôm qua sấn tới nắm tay Tú lôi đi. Tú vùng vẫy gỡ tay níu, hắn giận dữ tát tai nàng. Tôi vội vã buông chiếc Vespa ngã lăn bên vệ đường phóng tới. Thấy tôi có thể xông vào can thiệp Tú ra tay trước, giáng cho hắn một cái tát đổ lửa, sẵn trớn xô hắn ngã bật ngửa trên dãy bàn cà phê ngoài hiên quán, cặp kính cận của hắn văng xuống thềm gạch bể nát…
Chẳng rõ vì sao tôi chở Tú thẳng tới Viện Đại học Đà Lạt, đưa nàng vào luôn lớp Triết đang nghỉ giải lao chờ đổi giờ học môn khác. Các bạn đồng liêu áp tới vây khổn Tú, hỏi han về môn nàng theo học ở Đại học Văn khoa Sàigòn (vì tôi trót giới thiệu “sảng” nàng học dư bị văn khoa với tôi, để nàng đỡ ngượng đột ngột xuất hiện cùng tôi giữa đám “thư sinh lều chõng” nghiêm túc như các chủng sinh!) Tú rảo mắt tìm tôi cầu cứu tới giải vây…

Khi nắng vàng bắt đầu mờ nhạt sau lớp sương mù se lạnh, giăng mắc lụa lê thê trên các ngọn thông đong đưa theo làn gió thoảng trong khuôn viên đại học, không hiểu sao tôi đưa Tú về gác trọ Phan Đình Phùng thay vì đưa nàng về biệt thự Rosalie… Và lạ lùng thay, Tú không chút do dự theo tôi bước lên cầu thang rập rình, dốc ngược lên trời, dẫn tới căn gác xép gắn ghép vào vách tường mặt sau căn phố lầu của chủ cho thuê, trông như treo chênh vênh giữa không trung!
Gác trọ tuy chật hẹp nhưng bàn tay nghệ sĩ của Hoàng đã biến thành một căn phòng rất trật tự ngăn nấp, có kệ sách như một mini-thư viện, bàn viết, giá vẽ, máy hát dĩa, bàn cà phê…Hai chiếc ghế bố nhà binh ghép chung, kê sát góc tường làm chỗ nghỉ lưng cho hai chàng trai tơ khá lập dị.
Tú ngồi bất động nơi bàn cà phê, cúi nhìn…sàn gỗ, thỉnh thoảng ngước nhìn chân dung nữ tài tử điện ảnh Ava Gardner do Hoàng phát họa treo gần kệ sách. Đối diện Tú, tôi cũng ngồi im, ngước nhìn…trần nhà! Hai tách trà đã nguội lạnh từ lâu. Chẳng ai nói với ai lời nào. Trên máy hát dĩa, một mẩu giấy con của Hoàng: “Tao đi nghe récital dương cầm của Supitra, rất khuya mới về”.
Sau bữa ăn ở Chic Shanghai, trên đường về Hoàng kể chuyện gã đàn ông đã hung hăng lái xe đâm sầm vào chúng tôi trước nhà Tú: Gã là bác sĩ, đã theo đuổi Tú từ lúc nàng mới lên 16, đang học lớp seconde ở Yersin. Tú mồ côi cha rất sớm, mẹ tục huyền. Dượng ghẻ rất ác cảm với chị em Tú, nhứt là với Tú. Nàng cũng muốn nhận bừa lời cầu hôn của tay đốc-tờ nầy để thoát khỏi không khí ngột ngạt trong gia đình. Nhưng khổ nỗi nàng không ngửi nổi cái kênh kiệu, cái thô tục của hắn. Hắn nghĩ rằng cứ vãi tiền ra là muốn cái gì cũng được. Chưa chi hắn đã muốn xử sự như Tú là vợ của hắn. Cho nên Tú đã cho hắn một bài học thích đáng.

When I fall in love…It will be for ever…So I never fall in love…Giọng ca truyền cảm, đắm đuối của Nat King Cole từ máy hát bay ra trầm buồn. Tú và tôi không một lần nhìn nhau, không một lần nói với nhau bất cứ điều gì, lặng im nghe nhạc cho đến khi đã quá khuya. Chúng tôi lặng lẽ xuống cầu thang, rời căn gác trước đây chưa một lần tiếp đón phái nữ…
Tú hẹn tôi ngày mai sẽ trở lại gác trọ nghe nhạc. Lúc chia tay, có lẽ Tú không khỏi ngạc nhiên nghe tôi “ngập ngừng” thì thầm: Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Tôi đảo một vòng thành phố dầy đặc sương mù, tư bề vắng ngắt, dừng xe giây phút trước khu đại học còn leo lét vài ngọn đèn vàng yếu, lướt qua biệt thự Rosalie kính cổng cao tường lờ mờ trong đêm đen…
Tôi trở về cửa cài then gác xép
Giường chiếu mênh mông sầu khép đôi tay
Đếm tuổi thời gian dưới bóng đèn gầy
Soi cô độc nằm tròn trong đáy mắt…

Tú và tôi không lần nào gặp lại nhau nữa. Chỉ một lần duy nhất mặt đối mặt, thanh trong, huyền ão như…nắng đưa em về bên dòng suối mơ, như…nhẹ vươn theo gió (tôi) xa rời chốn xưa…

Cuối niên học, khi tôi rời Đà Lạt đi Paris, Việt Cộng bắt đầu dấy loạn, công đồn đả viện quân đội VNCH tại Trãng Sụp (Tây Ninh):
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Trận bày trận thiệt Mặt làm bình phong


Xuân thanh bình qua mau. *Xuân Canh Tý (1960): khói lửa lại kéo tới tái diễn cảnh thịt nát xương tan, đầu rơi máu đổ, tưởng đã vĩnh viễn sang trang.

*Xuân Mậu Thân sắt máu, tang tóc (1968)
Ngoài Hà Nội dân ăn Tết sớm
Hồ Giáp Đồng lận lỡm con đen
Giao thừa vừa độ quá đêm
Nằm vùng ra mặt súng rền miền Nam

Anh chị em chúng tôi và bầu đoàn thê noa đông đủ tề tựu về đón Giao thừa ở nhà đứa em út, đường Bạch Đằng (Hàng Xanh) cùng với ba má từ Vĩnh Long lên ăn Tết với con cháu. Pháo đỏ đầy thềm, rượu đổ tràn ly, tứ sắc, bài cào, xì phé, bầu cua đều chi! Năm nay hầu như mọi nhà đều tưng bừng đón Xuân…Chẳng ai ngờ những tràng pháo đại nổ liên hồi về sáng là đạn pháo VC công phá các công sự phòng thủ Sàigòn, hầu như hoàn toàn “bỏ ngõ” vì đôi bên lâm chiến đều tuyên bố hưu chiến nhân dịp Tết Nguyên Đán!
Đợt I “Tổng công kích” vừa bị đẩy lui, những đám cháy chưa dập tắt hết, hàng núi xác người nhầy nhụa thối rữa chưa kịp vùi lấp hay hỏa táng tập thể thì VC lại tung thêm đợt II, mưu toan san bằng thủ đô Sàigòn đã không hưởng ứng lời kêu gọi “tổng nổi dậy” cùng chúng lật đổ chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa. Cùng lúc chúng tàn sát hàng ngàn quân cán chính cũng như lương dân vô tội tại Huế.
Cố đô Huế nhân dân cửa đóng
Giải phóng quân giải phóng nghìn người
Đập đầu cắt cổ chôn tươi
Oan khiên u uất ngợp trời Cố Đô
Thảm cảnh “tận diệt Việt gian” tái diễn kinh khiếp và nhanh chóng gấp bội lần Xuân kinh hoàng Mậu Tý 1945…
Vừa cởi quân phục chưa đầy 2 năm, tôi lại phải giã từ đám môn sinh, khoác chiến y ra trận, đánh cận chiến, giành từng góc phố, từng con đường như phim “combat” trên truyền hình, trước khi phụ trách cứu trợ đồng bào nạn nhân chiến cuộc tại khu Vườn Lài, “đoàn ngủ hóa sinh viên” trong Liên đoàn sinh viên “phòng vệ” Thủ đô, để rồi sau cùng được trả về làm công tác giáo dục thuần túy.
Trở lại trường cũ ở Bình Dương, tôi bùi ngùi nhìn các lớp đệ nhị cấp trống vắng: một số lớn học sinh ở vùng xôi đậu của trường đã bỏ thây trên các chiếc xe lô do VC trưng dụng tiến đánh Sàigòn bị chận đánh, tiêu diệt toàn bộ ngay ngã tư xa lộ Biên Hoà…
Dụng hưu chiến toan bề tráo trở
Tưởng nhân dân hỗ trợ quân Hồ
Ngỡ dân nổi dậy ô hô
Cán binh Mặt Trận chôn mồ Mậu Thân

*Xuân Ất Mẹo tan tác (1975):

-Nhà tan cửa nát, người người ly tán…
Ba chục Tết tơi bời xương máu
Triệu oan hồn lảo đảo đồi nương
Ba đời gươm súng thê lương
Mẹ cha còn bấy lư hưong đỉnh đồng



Những đứa con chết muộn

Vẹn bực tức gỡ ống nghe khỏi tai, lầu bầu: ”Lệnh lạc khôi hài thật. Chưa đụng đã bảo rút là sao?”. Chàng đau lòng nhìn đám lính địa phương quân đang cố thủ dưới dạ cầu và quanh khu Tân Cảng. Rõ ràng họ chưa biết phải rút. Chính chàng cũng chẳng rõ ai đã ra lệnh kỳ quái vậy. Cấp chỉ huy trực tiếp chỉ nói lệnh từ Mặt Trời. Chắc chắn chàng không thể bỏ đám lính kiên cường nầy bơ vơ. Lại càng không thể khơi khơi bỏ chạy khi nhớ tới người anh cả, đại úy Trung đã tử trận trong lần giải tỏa cố đô Huế, hôm Tết Mậu Thân 1968. Và đại úy Hiếu, đã nằm xuống trong lần tái chiếm cổ thành Quảng Trị, hè đỏ lửa 1972…
Nhưng lệnh là lệnh. Phải tuân hành. Sau khi ra lịnh cho các chiến xa khác tháo lui về hướng Tiểu khu Gia Định, Vẹn yêu cầu số quân nhân trên chiến xa M48 án ngữ bên kia cầu xa lộ sang qua chiếc Jeep chỉ huy đơn vị trực chỉ Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp, cầm theo công điện mang tay thông báo đơn vị đã triệt thoái theo yêu cầu, đơn vị trưởng ở lại. Chấm hết.
Nửa giờ sau, chiến xa T54 xuất hiện rầm rộ. Vẹn khai hỏa trước và bắn tới viên đạn cuối cùng rồi nổ súng vào đầu, gục ngã trên pháo tháp, máu nhuộm đỏ ba mai vàng trên ve áo…
Trước khi quyết định ở lại trận tuyến, chắc Vẹn thừa biết Phủ Tổng Thống giờ đã như nồi cháo heo, nói chi tới Bộ Tổng Tham Mưu và cái Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp khốn khổ của chàng. Nhưng Vẹn vẫn chu toàn trách nhiệm trong danh dự, như một kỵ mã thời Nã Phá Luân đệ I, trên con ngựa sắt khổng lồ M48…
Ôi tiếng súng sau cùng đó, anh còn nghe tầm đạn đi không anh?...

Cùng lúc, trên chót vót một cao ốc, Tuân hướng ống dòm về phía Tân Cảng rực lửa, ngao ngán lắc đầu, cầm ống liên hợp (combiné) liên lạc với “thẩm quyền”. Im lặng vô tuyến hoàn toàn!
Gọi máy nhiều lần không kết quả, Tuân quyết định chuyển quân qua bên kia cầu Phan Thanh Giản, rải dọc hai bên xa lộ, gần trạm biến điện. Lại được lệnh rút lui về Lăng Ông Bà Chiểu! Tân bấm combiné chuyển lệnh cho đại đội phó thi hành. Tuân, đại đội trưởng ở lại vi trí chiến đấu, đơn độc tiến về hướng Ngã Tư Xa Lộ, lột bỏ nón sắt, đội chiếc mũ đỏ lên đầu, ngạo nghễ đứng sững trên mặt lộ chờ…xe tăng địch. Lúc cây M72 trên tay chàng bắn cháy một T54 cũng là lúc hàng ngàn viên đạn lớn nhỏ đủ cỡ từ các T54 khác tua tủa bay tới xé nát người Tuân, chiếc mũ đỏ bị hất tung, bay lơ lửng trên trời cao trước khi lảo đảo rơi rụng xuống chụp ngay vào họng đại bác một chiếc tăng! Có lẽ Tuân ao ước được tan xác theo quê hương tan tác.
Anh! Hỡi anh ở lại Charlie…

Lúc những mảnh thịt còn lại của Tuân bị xích sắc xe tăng nghiền nát ngoài xa lộ cũng là lúc Toàn đang ấm ức trấn thủ phía sau Dinh Độc Lập. Khi chiếc T54 đầu tiên ủi sập cửa sắt của Dinh, Toàn nổ súng vào đầu…Cũng như Tuân, Toàn không thể sống khi đất nước đã chết…Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây…Bạn bè còn đó anh biết không anh, người tình còn đây anh nhớ không anh…
Mặt trời thật sự đã vụt tắt, dù ngày ấy nắng chói chang, với Vẹn, với Tuân, với Toàn và với nhiều chiến hữu khác của họ, trong ngày cuối của VNCH. Nhưng mặt trời giả hiệu vẫn còn leo lét nhắc nhở, khuyến khích những ai đã từng đâm sau lưng chiến sĩ hãy tiếp tục ngo ngoe kiếm ăn trên xác chết của con em mình. Độc hại nhứt vẫn là thái độ khả ố của cựu đồng minh cờ hoa, cứ thường xuyên trình chiếu những cuốn phim về chiến tranh VN, trong ấy chẳng bao giờ có bóng dáng người chiến binh cộng hoà kiêu hùng, gây ngộ nhận cho dư luận thế giới rằng cuộc chiến ở Việt Nam chỉ là cuộc đấu súng giữa du kích CS và cao bồi Huê Kỳ!

Trong ba người vĩnh viễn nằm xuống ngày 30 tháng 4 năm 1975, chỉ có Toàn tốt nghiệp Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Điểm đáng nói: Vẹn, 27 tuổi. Toàn, 25. Tuân, 23 là…anh em ruột. Cả ba đều chết cho quê hương ở lứa tuổi dưới 30, ở cấp bậc đại úy.
Hỡi ơi một dải san hà
Lọt tay cộng sản hận loà sử xanh

(Trích “Tạp ghi những điều trông thấy”)
-Tù đày…

Trại cải tạo Z30Z (Hàm Tân, 1977)
Biến đất Việt nhà tù vĩ đại
Khắp nơi nơi dựng trại tập trung.
Học tập cải tạo tàn hung,
Quân nhân công chức trị trừng tội xưa.

Quả thật tôi đang cử động trong bốn bề thời gian đặc cứng trong căn nhà tù do chính tôi cùng một số đông anh chị em “tù cải tạo” chém tre, đẵn gỗ, phá rừng, đắp nền, dựng cột, lợp tranh, chắn song, xích cửa, cài then dựng nên tự nhốt mình rồi…trao chìa khóa cho bọn cai ngục cộng sản. Đúng theo “yêu cầu” của giới tự cho là “đỉnh cao của trí tuệ loài người”: Các “phạm nhân” -hết rồi mỹ từ “cải tạo viên”, sau hơn 2 năm “học tập” -tự ý trừng phạt, tự ý giam mình. Nói cách khác: tự ý xin được ở tù.
Sự tự nguyện “tự giác” nầy được phát huy đến cao độ khi phạm nhân tự lực cánh sinh và kêu réo gia đình “thăm nuôi”, để đủ sức lao động “vượt chỉ tiêu” cho nhà nước. Trước đây có lũ “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, vô tình hay cố ý “đâm sau lưng chiến sĩ”. Bây giờ, cả bọn đâm và bị đâm đều “tự nguyện” vào rọ hết để…ăn cơm tư gia cuốc cày chết cha cho cộng sản!

Đêm đã xuống từ lâu trên Căn Cứ 5 Rừng Lá cũ. Thế nhưng cường độ oi bức, không khí nặng mùi xú uế trong nhà giam không hề lắng dịu…
Vâng, đêm nay tôi đã
dừng lại một bước trên đường dài gian khổ đọa đày, nhục nhằn, bức bách -“con đường đầy máu và nước mắt”- và nói thầm đó là mùa hè…dẫu chẳng còn là mùa hè xa lắc xa lơ năm nào, nơi đó có lời Tây Ban Cầm tự tình bên khung cửa khuất, có chiếc khăn choàng đã bỏ quên trên bãi muộn, không bao giờ tìm thấy nữa…Nhưng vẫn là mùa hè muôn thuở trong tôi, dù giờ đây ngọn đèn pha trại tù chói lòa chiếu rực vào mắt, dù xiềng gông đã thay vòng tay nồng nhiệt yêu đương năm nào đã trói buộc tôi trên làn cát mịn Địa Trung Hải xanh lơ, dù giờ đây tôi đang nằm trơ vơ trên chỏng tre ọp ẹp vấy máu-người-quện-đen-quanh-vô-số-xác-rệp, giữa hai khoảng trống dành cho Tá và Đạt, hai bạn tù đã tắt thở trên tay tôi vì thiếu liều thuốc sinh tử làm hạ cơn suyễn cực nặng. Và tôi đã phải cứa đôi chiếc poncho quấn xác họ, cho cả hai khỏi bị chôn trần. Xưa có “sơ mi gỗ”, trống kèn chen lẫn tiếng khóc kể thảm thiết. Nay, sơ mi cao su hoặc sơ mi chiếu. Cả tiếng nấc, câu kinh cũng bị cấm tuyệt. Tuy thế, tôi cũng thầm thì Amen, A Di Đà Phật khi bọn cai ngục cho mang xác hai bạn tôi đi vùi lấp ở một xó xỉnh nào đó, không lưu vết tích gì hết…

Bất giác tôi thở dài chạnh nghĩ đến những nữ “phạm nhân” rất trẻ, thuộc nhóm kháng chiến Phục Quốc -những người nữ đáng được yêu thương, trân quí- bị nhốt kín trong nhà giam cận kề, không còn tự do tung tăng bay nhảy, một thời đã cùng người yêu rong chơi vui thích, khi trong rừng chồi, trên đồi thông, lúc trên ghềnh đá sóng vỗ bập bùng…
Vói tay mở chiếc ba lô sờn rách đã theo tôi trên khắp nẻo đường hành quân, tôi lôi chiếc khăn choàng cổ màu đỏ, cũng đã bạc màu, bịt mắt để đi vào giấc ngủ chập chờn, mệt lử, trong trạng thái căng thẳng tột cùng: đợi chờ tiếng kẻng inh ỏi báo thức, như những đêm mất ngủ trước đây -lúc còn bên ngoài vòng kẽm gai- thao thức chờ tiếng “bõm” của giọt nước từ rô-bi-nê không khóa chặt, rỉ ra, rơi xuống…
Giờ sẩy vực triền miên địa ngục
Giữa vòng gai nuốt nhục sa cơ
Thân lao lý đến bao giờ
Nước non tàn một cuộc cờ trắng tay

(Trích “Nhật ký của một người lạc thực”)

*Những mùa Xuân sau 30.4.1975
Xưa nay sử Việt chưa từng
Nạn dân bỏ nước ùn ùn ra đi
Dù biết vạn hiểm nguy vẫn trốn
Nộ trùng dương ghê rợn sóng phăng.
Hiếp dâm hải tặc dã man
Cạn lương giữa biển người ăn thịt người…

*Xứ Tuyết, xuân Đinh Hợi 2007


Thảm họa ba mươi tháng tư một chín bảy lăm bất chợt phủ chụp xuống đất nước như một tai nạn lưu thông kinh hồn, vô tiền khoáng hậu, gây thương vong hàng loạt cho hằng muôn vạn sanh linh (hécatombe), đột biến như cơn nước lũ vỡ đê cuốn phăng đi một mảng mặt lộ khổng lồ trên *đại lộ kinh hoàng*, chia cắt đôi bờ *sông Côn mùa lũ*; bên nầy bờ, nhục nhằn đày đọa; bên kia bờ, an lạc, tự do…Đôi bờ càng lúc càng dang xa, càng lúc càng *nghìn trùng xa cách* như bên nầy và bên kia đại dương mông mênh, phong ba bão táp trùng trùng điệp điệp. Một đại-dương-chứng-nhân biết bao thảm kịch vượt ngoài trí tưởng tượng của loài người, một đại dương như bể khổ trầm luân, đã đánh đắm hơn nửa triệu nhân mạng vượt trùng dương mưu tìm đất sống…
Cơn gió thốc từ nhánh sông Saint-Laurent lờ đờ trôi ngang hậu liêu tu viện Dòng Tên Villa Saint-Martin lay động hàng phi lau ven sông. Từng đàn bướm trắng bung lên, chới với vẫy cánh bay lượn la đà mặt sông làm liên tưởng tới những cánh bườm của những chiếc xuồng ba lá tí teo, mong manh như lá liễu trên đại dương bao la sóng gào gió thét, ngày nào đã đưa từng đoàn người không đành lòng rời bỏ quê cha đất tổ vượt biển tìm đất hứa…Phải chăng các cánh bướm kia là những oan hồn vất vưởng của bạn bè thân thương vạn lần ưu tú hơn tôi đã phơi thây trên chiến trận, chôn xác trong rừng sâu nước độc của những trại giam nghiệt ngã, tàn khốc hay vùi thân dưới đáy biển tăm tối thiên thu?
Requescat in pace!
Hỡi ôi! Hí trường hay dở ba canh vãn, Thế sự thăng trầm một kiếp thôi. Chẳng còn được như ngày xưa viếng thăm phần mộ những người đã khuất, cúi đầu lặng yên suy gẫm thế sự thì...Hỡi những anh em đã nằm xuống không một nắm mồ-morts sans sépultures! Xin hãy cho tôi được một lần
Nhớ nhau vẫy bút làm mưa gió
Cho nắm xương tàn được nở hương


*Xuân Mậu Tý (2008):
ngỡ ngàng như giấc chiêm bao…
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

Sáu mươi năm đã trôi đi từ độ Xuân kinh hoàng Mậu Tý 1948 ngự trị trên thôn xóm quê hương -với chính sách khủng bố kinh khiếp của Việt Minh do đảng Lao Động VN chuyên quyền áp đặt- tưởng chừng qua như một chớp tắt của sấm sét trên không trung…
Thế sự thăng trầm thì cuộc sống trên đất tạm dung của tôi cũng không tránh khỏi những đổi thay, đôi khi rất đau lòng. Những cảnh “đổi đời” tưởng chỉ xảy ra trên quê nhà lại diễn ra nhanh chóng ngoài sức tưởng tượng trên xứ người với cộng đồng người Việt xa xứ. Không kể xiết những đảo lộn trong cuộc sống hằng ngày của di dân VN trên đất khách…
Ngoài mọi dự tính, chờ đợi, ước muốn, những tưởng đã đến lúc tự cho phép mình rửa tay gác kiếm hưởng nhàn -ba bốn chục năm bương chải để sinh tồn, còn ức hiếp gì nữa mà không chịu ngưng nghỉ- bỗng dưng tôi đành bỏ hết, làm lại từ đầu khi gần hội đủ điều kiện để an tâm dưỡng lão, dọn ra “căn nhà ngoại ô” nầy, tính ra đã 16 năm qua…
Căn nhà nhỏ trong một chung cư nằm ở đoạn cuối con đường dẫn ra bờ sông. Toàn bộ cao ốc xếp hàng làm một thành lũy bê-tông tiếp cận một khu rừng thưa, lỗ chỗ những đầm lầy ao tù ngập đầy lá cành mục rã. Khung cảnh yên lặng cố hữu của xẻo đất hẻo lánh vùng ngoại ô thành phố Montréal nầy rất thích hợp với cư dân tới hoặc sắp tới tuổi hồi hưu. Khu chung cư hoang vắng như thành phố ma. Họa hoằn lắm mới có một hai bóng người lụ khụ thấp thoáng, chậm chạp di động. Thỉnh thoảng một chiếc xe hơi cô lổ, nhưng được bảo toàn quá kỹ, rề rề lăn bánh chở hai mái đầu bạc phơ, y như một họat cảnh trong phim câm. Sự huyên náo duy nhất đến từ lũ chim bay liệng, ríu rít trửng giỡn…Khu chung cư có vẻ một chợ chim khổng lồ hơn một cư xá cho con người! Mọi tiếng động đều tắt ngấm theo bóng đêm vừa chụp xuống. Tĩnh lặng hoàn toàn. Có lẽ vì lý do an ninh, đèn đường san sát và sáng hơn các nơi khác. Từ các góc tối, nhiều dàn đèn rọi tập trung chiếu vào các kiến trúc, làm khu chung cư nổi bật lên nền trời đen tuyền như một di tích lịch sử!
Cơ thể rủ liệt, thần trí rời rã sau chuyến rong chơi vào miền quá khứ vui buồn lẫn lộn, nhưng giấc ngủ không đến với tôi trong căn nhà ngoại ô tĩnh mịch. Bạn bè tứ tán, cố nhân nếu không bặt tăm thì cũng ơ thờ, tránh mặt… Khi bước chân ta về…Từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ…

Tình cờ điện thư của một bạn văn báo tin có một bạn đọc muốn nhờ anh giúp liên lạc với tôi. Quả thật hết sức bất ngờ vì chẳng bao giờ tôi chờ đợi hay nghĩ rằng việc ấy có thể xảy ra: Một cố nhân chỉ một lần mặt đối mặt trên Xứ Hoa Đào 49 năm về trước, đang ở bên kia đầu dây, cách tôi ba múi giờ, về hướng Tây Nam, vùng đất được các nhà địa chất học tiên đoán sẽ bị nhận chìm xuống lòng Thái Bình Dương sau một trận động đất khủng khiếp.
-Tân nghe đây!
-Tân-Viện Đại học Đà Lạt, phải không?
-Không sai! Tú-Rosalie, đúng không? Không thể Tú nào khác được!
-Sao chắc dữ vậy?
-Chỉ có Tú-Rosalie mới biết Tân-Phan Đình Phùng, Đà Lạt 1959!
-Còn nhớ năm 1959 nữa cơ à?
-Chẳng lẽ Tú quên gác trọ năm nào...
Hai người bạn non nửa thế kỷ bặt tin, nhờ một bài viết của Tân đăng báo ở Cali, tìm được dấu vết nhau! Họ nói chuyện như mới chia tay ngày hôm qua, coi chuyện xa cách nhau 49 năm qua như một giấc chiêm bao! Bao nhiêu cố nhân nặng tình nặng nghĩa với nhau bên nhà, sang đây, nếu không ngoảnh mặt làm ngơ, cũng chẳng còn chút thân tình nào như trước, dẫu chỉ mới xa nhau năm ba năm! Thế mà Tú đã nhớ và để tâm dò la tung tích anh sinh viên “thỏ đế”, năm nào đã ra đi không một lời giã biệt, 49 năm trước!…Trong bối cảnh thế thái nhân tình ngày nay, phải nhìn nhận một tấm lòng như thế vô cùng hiếm hoi và quả thật đã làm “ấm lòng chiến sĩ” (già nua, thất thế) trên xứ lạ quê người…
Sau tháng Tư đen, hơn cả tôi Tú đã trải qua nhiều gian truân khổ lụy, mẹ góa con côi, đơn thân độc mã gánh gồng mọi nhục nhằn, đương đầu với biết bao thử thách gian nguy. Đau nhứt là đã “cúng” cho CS đứa con trai đầu lòng chết đuối khi bị điều đi làm công tác thủy lợi. Trắng tay sau vụ đánh tư sản, giờ đây mẹ định cư một nơi, các con một ngã, rải rác khắp năm châu. Ít ra tôi may mắn hơn Tú về điểm nầy, tuy tôi cũng tay trắng như Tú khi vượt thoát ngục tù CS…Nữ bá-tước-chân-trần năm xưa giờ đây đành…“tay-trần” !
Đà Lạt, một thuở…Nay còn đâu
Đà Lạt cảnh thơ tình man mác
Vàng lối thu ngơ ngác nai tơ
Đồi thông bụi phấn buông mờ
Xuân Hương hồ biếc phẳng lờ mặt gương


Tú hẹn sẽ ghé thăm căn nhà ngoại ô ven sông vào mùa xuân tới. Có lẽ cho tròn năm (mươi) năm rồi không gặp… chăng?
Chỉ sợ không còn nhìn ra nhau nữa… Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy!
-o-o-o-

Lòng đắng sá chi muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say

Quyển nhật ký vuột khỏi tay Tân, rơi xuống sàn gỗ, mở ra ở trang viết về *Xuân Ất Mẹo (1975), kết thúc bằng bốn câu thơ ghi nguệch ngoạc, có lẽ chép trong cơn say, lúc chạnh nhớ tới chuỗi ngày gian khổ trong ngục tù cộng sản:

Khuya vượn hót chiều tà tu hú
Đại mộng đời thế sự bến mê
Phù vân mây chó trôi về
Ba mươi năm giặc não nề hoa niên

Thôn trang Rêu-Phong, Xứ Tuyết,
cuối xuân Mậu Tý (2008)
-Lê Tấn Lộc-

__________________________________________________________________________________
Ghi chú: Trích đoạn thơ văn sử dụng trong bài viết nầy, người viết mượn của các thi sĩ Kiệt Tấn, Nguyễn Bính, Phạm Thiên Thư, Trần Huyền Trân, Tạ Tỵ và đôi khi của chính tác giả.
Lời nhạc mượn của các nhạc sĩ Nguyễn Văn Khánh, Ngô Thụy Miên, Hoàng Nguyên, Trần Thiện Thanh, Lê Thương, Trịnh Công Sơn...






Gà heo lẫn lộn

Tiểu "loạn" vui xuân:

Gà heo lẫn lộn
-Đêm khuya gà gáy ó o
Bậu ngủ không được bậu mò đi đâu?
-Đêm khuya gà gáy ó o
Anh ngủ không được anh bò anh chơi!


Anh Hợi ngáp dài, chảy nước mắt vì đợi lâu quá mà không có thuốc hút, không có rượu vô. Trước khi anh tới đây, biết anh ưa phì phèo và dô dô, chị Dậu, vợ anh đã tước khí giới bằng cái màn lục soát tịch thu tang vật, tài sản trong các túi, bóp phơi của anh, chỉ đưa cho anh 3 cái tích-kê buýt-mê-trô, 2 cái cho Hợi, 1 cái cho Gà, người mà Hợi phải đón về (sau đó anh mới biết). Đinh ninh sẽ có chầu nhậu lớn, Hợi vui vẻ chịu nhịn, chờ…Vợ anh đã không sai anh đi bắt gà về sao?
-Nè Heo! (Chị Dậu thường gọi yêu Hợi như vậy). Heo ga ga (ra ga) dắt con Gà dìa cho tui nghen! (Chị tự xưng nũng nịu là Gà với chồng). Để tui gạ bán cho thằng Vịt (Vic, tên thằng đồng nghiệp của Hợi, người Ma-Rốc độc thân hai mèo -xin hiểu: có nuôi hai con mèo, chớ không phải có hai con đào). Lẹ dìa, Gà tui cho xộc xộc!
“Văn chương” của chị Dậu nó đại chúng (đụng cháy!) vậy đó. Thế nhưng Hợi hiểu sai ý vợ, vì “văn chương” của chàng hổ lốn tây ta. Hợi “diễn nghĩa”: Ga ga=mua hơi đốt (bác-bơ-kiêu là cái cẳng!); dắt= bắt, chắc vợ mình nói đớt; dìa= dừa, nói đớt nữa! Nước cốt dừa là cái chắc. Câu kế coi bộ khó hiểu, nhưng có Vịt là phải có màn tiết canh. Câu chót thì quá dễ, con nít cũng hiểu: Lợn táp xộc xộc, “cái kia”, nó cũng “xộc xộc” Mà mình là con heo nọc thì nó còn rõ bông hơn nữa. Phen nầy chẳng những tửu mà còn sắc nữa mới ác!
Nhưng tới cái địa chỉ chị Dậu ghi, Hợi mới bật ngửa, chung quanh chẳng thấy ai bán gà vịt, chỉ toàn người là người, toàn oa-gông và oa-gông, “toa nầy toa khác nối liền toa”, xẹt qua xẹt lại như con thoi. Lại thêm có bảng yết thị: Cấm hút thuốc. Cấm thức uống có chất rượu…Bỏ bu không chứ! Phía sau tấm ảnh chị Dậu đưa cho chàng ta -lúc đó Hợi đinh ninh là ảnh của người anh cần gặp để mua ga (gaz) hay mua gà, hoặc để mình dẫn về phụ Dậu làm gà- có ghi người tên và số chuyến xe lửa tới từ An-Béc-Ta, miền viễn Tây Canada.
-Tổ choa noá! Hợi lầu bầu. Noá biểu mình ro go déc cô Gò về cho noá gọ gãm gỏ bán cho thèng Vịt, mò mình chạm tiêu tưởng bở noá cho mình nhạu tiết can rồi xọt xọt!
Hóa ra ông nói gà bà nói vịt! Kiểu “canh gà Thọ Xương” mà có lần một ông “biểu dân” con rồng cháu tiên ta đã dõng dạc dịch sang tiếng Anh cho bá quan văn võ Mỹ hiểu là húp canh gà mắc xương!
Rõ mụ Dậu nhà tôi lẩn thẩn như gà mắc toi. Đồ con gà chết! (Một danh từ rất phổ biến trong quân đội Mỹ ngày xưa tham chiến ở Việt Nam: Chicken died!)
-Thằng Vịt hăng-đi-cắp nặng mà con Gà mái ghẹ của mình nó đâu có biết. Hợi thích chí mỉm cười, thầm nghĩ. Nó đâu có biết đạp mái, nó chỉ biết đạp máy may và cắt chỉ lộn thinh thôi. Đúng là con gà thiến! Đạp máy cả ngày, tối đến nó nhểu nhảo nước dãi như gà nuốt dây thun
Hợi ủn ỉn cười, dắt con gà có lông trên đầu, cột thành đuôi ngựa, về trình diện Gà nhà

Khi chị Dậu gọi hắn tới “mít mít-xơ Chích-Cần”, Vịt ta lẹt đẹt xách tới bốn năm con gà đông lạnh, loại gà nuôi thóc và vài ba hũ chao. Chắc chắn thế nào cũng có màn gà nướng chao. Quả nhiên! Và hắn đã ăn chí tình món gà rô-ti nước dừa mà chị Dậu nấu hết phản, quá hợp khẩu vị của hắn. Không một phút giây nào hắn ngưng ăn để liếc nhìn con Gà đuôi ngựa đầu quăn môi trớt -danh xưng Mai Liên- đầu gà đít vịt rất ư là hấp “rẫn” của chị! Nhưng chị Dậu không nản lòng, trái lại còn hăm hở mớm đút cho hắn nhồi nhét đầy cái bụng phệ: Mẹ gà con vịt chắt chiu…
Chị tự an ủi, cái mông con nhỏ Gà hơi bề xề. Nhưng vỗ đồng sơn phết, o bế lại chút đỉnh thì cũng láng xì cón ngay! Nó chắc cũng đã đôi ba lần nằm lửa, nhưng cũng chẳng sao, nước vỏ lựu, máu mào gà thì…đâu cũng vào đó thôi! Trừ phi nó bị mấy thằng mồng gà sang bịnh thì hơi kẹt. Hao tài tốn của dữ a! Thủng thẳng điều tra rồi… tới đâu tính tới đó
Trong khi ấy, vô vài chai bia cho đời lên hương, Hợi đã nhìn chòng chọc vào hai cái đùi gà xối mỡ nõn nà, đang chui khỏi cái mini-duýp củn cởn đã tụt lên cao khi cô Gà bật ngửa trên ghế xích đu nhả khói thuốc lên trần nhà, khép khép mở mở cặp đùi chắc nịt của nàng, làm Hợi ừng ực nuốt nước miếng từng chập, tay chân bắt đầu táy máy…Coi bộ con Gà mái tơ cũng đã “xem trong ong bướm có chìu lả lơi” trước tấn công dò dẫm của cái móng chưn heo của Hợi ta dưới gầm bàn.
Báo hại, khi Vịt cồ Ma-Rốc-Mốc-Ra no nê rồi kiếu Gà-gia-chủ ta thăng, chị Dậu nóng mũi thẳng tay xáng cho con lợn lòi của chị một bạt tay đổ lửa! Sẵn trớn, chị níu cái đuôi ngựa con Gà Miên-Lai lôi vô toa-lết lột quần lột áo đánh ghen tới tấp, xổ tiếng Tây thuộc địa học lóm ở lớp ba trường làng mắng nhiếc xối xả:
-Đồ “pu-ia-tanh-sơ-van” (putain-cheval), đồ đ…ngựa! Tưởng mầy gà mờ, ai dè mầy quá xá trời. Thấy đờn ông con trai là rậm rật muốn nhảy ổ như gà mắc đẻ! Bộ tao hưỡn lắm sao mà dọn ổ cho mầy đẻ bậy? Bộ muốn mèo mả gà đồng hả con tiện tì? Tao tưởng rước được con gà đẻ trứng vàng, dè đâu quơ nhằm của hôi của thúi, trốn chúa lộn chồng! Uổng công tao thức sáng đêm nấu món Cốc-Ma-Ru (ý muốn nói gà nấu la-gu, Ragout de coq, mà vì giận quá chị nói lẹo lưỡi) cho mầy ăn mà mầy chê, lại còn thậm thà thậm thọt rình ăn tươi nuốt sống con heo nọc Hợi của tao!
Con nhỏ Gà cũng đâu phải tay vừa, phản pháo tức khắc:
-Bộ chị bảnh lắm sao? Muốn bỏ nghề lái heo làm “tài pán” lái gà hả? Phải lắm! Chị tên Dậu mà! Sao không đổi họ Tào tên để hành nghề cho mau phát tài? Con heo nọc của chị mà mấy lăm hơi. Bất quá cũng 30 giây là bỏ cuộc, lẹ như gà thôi! Thứ gà Tàu, gà giò, gà tre như cục cưng của chị chỉ để chưng sơ coi chơi, rồi luộc, xé phai hay nấu cà ri. Ăn dư thì trút hết vô làm bậy nồi xà bần còn có lý, chớ đâu phải gà nòi mà đòi đá độ! Chị thiến nó đi là vừa, cho nó khỏi leo trèo bậy bạ…
Câu nói móc lò của Gà khiến chị Dậu trừng mắt quay sang Hợi, ví chàng ta vào góc tường cào xé chí cốt. Hợi quả có số đầu năm bị gà đá. Vậy mà thầy bói xủ cho anh một quẻ, tiên đoán năm nay số anh tốt lắm, thế nào cũng gặp quới nhơn tuổi Quý Dậu (con gà quí) phò hộ, tai qua nạn khỏi…Con gà quí cái khỉ khô gì, con gà quay thì có! Điệu nầy chắc cất đầu không lên, cùng căn mạt kiếp luôn. Một bên: nữ kê tác quái, gà mái đá gà cồ. Một bên: gà một chuồng bôi mặt đá nhau!
Sau trận đá bắt xác, cả Dậu lẫn Gà đều tơi tả như gà chà bông. Bên nào cũng trần truồng như nhộng, chân tay rã rời, rũ liệt, nằm quẹp trên sàn nhà. “Dịp may ít có, đồ rẻ ít khi (lại còn phơ-ri nữa thì tội gì không hưởng), Hợi thừa cơ thả con lợn lòng dùng đủ gà ta lẫn gà tây, gà rặc giống cũng như gà lai căng, gà nuôi lẫn gà rừng. Dùng thiệt tình: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi!
Đã đời rồi, lợn Hợi ta ục ịch xề vô bàn xực láng mấy dĩa gà hấp rau răm, gà hấp muối, gà xào xả ớt, làm sạch mấy món ăn chơi: lưỡi gà xào hột điều, cẳng gà rút xương… Xong xuôi, Hợi sật sừ ngủ gà ngủ gật, hài lòng như bác nông phu vừa cày xong thửa ruộng! Hợi vui? Heo buồn? Lợn chán phèo? Hay nập nợn nữa?

Xưa có câu ngạn ngữ La tinh:”Triste animal post coitum…” (tạm dịch: Con vật buồn bã sau khi giao hợp). Có người thêm:”…sauf le coq qui chante!” (…trừ con gà trống, sau khi xong nó gáy!). Nhưng gà hay heo gì cũng không sống dai. Ngoài việc con người ăn gà lộn, gà úp mề, gà xác, heo hàm nàm, heo sữa…ngày nay, với phương pháp chăn nuôi càng lúc càng tân tiến, gà trống hết hữu dụng, gà mái chỉ được nuôi thúc để đẻ trứng (khỏi phải ấp) hoặc để xẻ thịt. Số phận con heo cũng chẳng khá hơn: Ngày xưa, con heo nọc phải được “thỉnh” và phải được cho ăn đủ một chục có đầu hột gà rối mới chịu… hành nghề! Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!
Con người thì sao? Triste animal post coitum? Ngày xưa, nhà thuốc Võ Văn Vân quảng cáo món thuốc Tam Tinh Hải Cẩu Bổ Thận Hoàn như sau:“Phàm một con hải cẩu tới mùa rượng đực thì không thiết gì ăn uống nghỉ ngơi, mà chỉ nghĩ tới một việc là giao cấu…” Tiếp theo là màn giải thích Tam Tinh: ”Tỉ như bình nghiêng mà đổ (Di tinh)…Tỉ như bình đầy mà tràn (Mộng tinh)…Tỉ như bình lủng đáy (Hượt tinh)
Không chắc con vật mắc phải mấy cái bịnh mắc dịch đó, hình như là đặc quyền (privilèges) của giống vật mang tên…người. Cũng chỉ có loài người mới có những thác loạn dục tính (aberrations sexuelles) quái đản: Thị dâm (voyeurisme), hiếp dâm, dâm tập thể (orgie, “bề hội đồng”), bạo dâm (sadisme), khổ dâm (masochisme), thủ dâm, lão dâm (gérontophilie), ấu dâm (pédophilie), thú vật dâm (zoophilie), tử thi dâm (nécrophilie), đồng tính luyến ái (homosexualité), loạn luân (inceste), v.v…
Cũng chỉ con người tìm cách giải thích các lệch lạc (déviations) kể trên từ các mặc cảm (complexes), từ những vùng khoái cảm (zônes érogènes), từ những cấm kỵ (tabou) -một sản phẩm chuyên biệt của giống người! Chẳng hạn như mặc cảm tự ti (complexe d’infériorité), mặc cảm bị thiến (complexe de castration), các giai đoạn dục cảm “hậu môn kích dâm, khẩu dâm” (stade sadico-anal, stade oral) được sử dụng để tìm hiểu nguyên nhân sâu kín của chứng đồng tính luyến ái, những nguyên nhân thường liên quan tới các hoài niệm thương động (souvenirs traumatisants) thời thơ ấu, tạo nên hiện tượng dồn nén (refoulement), ức chế (censure), ngăn trở (résistance)…Mặc cảm Oedipe, mặc cảm Électre được dùng để giải thích sự loạn luân. Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa là chuyện đáng làm. Nhưng chữa trị tận gốc là một chuyện khác.
Riêng con vật, đôi khi cũng có những “lệch lạc”, do sự rối loạn nhất thời của các hạch tình dục (hormones sexuelles). Chẳng hạn, có những con hải cẩu đực “đè” những con cùng giống (không thể áp dụng cách giải thích này với con người). Và hình như chỉ có con khỉ biết thủ dâm. Nhưng nó chẳng có “mặc cảm” gì về hành vi tự nhiên đó. Cũng như gà vịt đạp mái loạn xà ngầu mà không ai cho đó là loạn luân. Con người đu dây giữa một bên là bản năng và đời sống, một bên là lý trí và đạo hạnh,”không là thiên thần, cũng không là ác quỉ…Kẻ nào muốn làm thiên thần sẽ làm ác quỉ” (Pascal, Pensées).
Đặc biệt, con nhím được xác nhận thuộc loài “tự ân ái” (hermaphrodite, còn gọi là bisexué: hai bộ phận sinh dục, âm-dương, trong cùng một cơ thể “làm tình” với nhau, rồi thụ thai, sinh đẻ). Loài người cũng có loại “hi hữu” nầy, nhưng khổ nỗi họ không thể tự dâm tự sản, “tự biên tự diễn” như con nhím, trái lại phải giao hợp với một cơ thể khác: khi thì gần gũi với phái nam, lúc ăn nằm với phái nữ, tùy trương độ kích thích của bộ phận nữ hay nam nơi người dị tật éc-ma-phờ-rô-đít. Lọai bán nam bán nữ nầy rất nguy hiểm vì tính phái không được phân định rõ rệt, sinh ra biến chứng mất cân băng tâm lý trầm trọng, dễ đưa tới việc giết người chung chăn chung gối với họ:
Năm 1960, tại bệnh viện Salpêtrìère (Paris), người viết có dịp thực tập quan sát một người đàn bà Phi lai Âu có bộ phận sinh dục nam (chỉ thiếu hai ngọc dương) nằm bên trong bộ phận sinh dục nữ, với đầy đủ các “phụ tùng”. Cô nầy đã giết và bầm thây để phi tang 36 người đàn ông đã ân ái với cô!

Thôi, chuyện tiểu “loạn” đầu xuân tới đây tạm ngưng là vừa, vì tính ra đã “đâm hơi” khá nhiều về dục tính. Không khéo người viết sẽ bị lên án viết dâm thư nhạt phèo, vô duyên, dỡ ẹt! Có điều, Hồ Xuân Hương đã từng nhận định về “việc đó”: dẫu mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo! Nên thiết nghĩ mùa xuân, mùa của đâm chồi nẩy lộc, của hồi sinh, hồi xuân, hồi lực (phản lão hoàn đồng?) -tâm lý nhiều hơn sinh lý- chúng ta cũng cần tự bồi dưỡng bằng hột gà ốp-la, ôm-lết, hột gà xô-đa, cánh gà chiên bơ, lòng gà xào thập cẩm (đừng quên đớp cái phao câu mà Tây nó gọi tên là “le-sot-l’y-laisse-thằng-ngốc-mới-bỏ-lại; đúng như sự chi dẫn của tiền nhân sành điệu: nhứt phao câu, nhì đầu cánh), để tránh rơi vào cảnh gà tồ ăn quẩn cối xay, cú rũ như con gà mắc toi bên cạnh con gà mái dầu mà xấu hổ nghe bên hàng xóm gà đẻ gà cục tác, ác đẻ ác la, rồi đâm luyến tiếc thời đại vàng son phùng xòe xưa kia của mình mà bực tức con gà trống tơ đang ngưởng cao cổ gáy tồ tồ: Con gà nó ghét tiếng gáy là thế đấy!
Đầu xuân, xây đầu gà uống rượu cũng là một thú vui đặc biệt của người Việt thích “dô dô”. Kẻ nào không chịu thấu 3 tua liền đầu gà quay về phía mình thường bị coi là con gà rót. Nghe qua muốn nổi da gà!

Nhân dịp đầu năm, xin nhắc quí vị đang tìm job nên chăm sóc kỹ hơn dáng dấp bên ngoài của mình, phòng khi trình diện boss sẽ không bị trề môi chê: Bộ vó trói gà không chặt, cắt cổ gà không chết, lờ mờ như con gà mở cửa mả!
Xin chúc quí ngài cầm bút được sự tĩnh tâm, định thần nhìn kỹ, nhìn thấu đáo để tránh khỏi cảnh trông gà quá cuốc đang rất thịnh hành với lọan chụp mũ, bóp méo, xuyên tạc, dán nhãn trật bàn đạp trên trán các cây bút muốn phơi bày “buổi hoàng hôn của các thần tượng” đang được nhóm thuộc hạ sai nha tiếp tục sùng bái, toan bề, bằng mọi giá, “cứu giá”… Mới đây thôi, người Việt ờ Xứ Đại Thử đã có dịp chứng kiến hiện tượng cuồng tín quá đỗi nầy! Nếu cần, xin mách quí ngài dùng thử món gà ác tiềm thuốc bắc hoặc gà xào nấm Đông Cô. Nghe đâu nó làm ta sáng mắt lắm quí ngài ạ!

Với quí văn, thân hữu, xin chúc quí ông không lật gọng dài dài để còn nhớ “vui xuân không quên Tết Mậu Thân”. Thực tế nhứt là…chớ xao lãng làm bổn phận công dân của đức…lang quân, sao cho yên nhà yên cửa, trong ấm ngoài êm, “nam nữ bình quyền”, người người hoan lạc tấu khúc…Xuân Tình!


Xứ Tuyết, Xuân đất khách…
Lê Tấn Lộc






















































Monday, October 27, 2008

Tiểu thuyết mới ở Việt Nam: một kỷ niệm



Tiểu thuyết mới
ở Việt Nam: một kỷ niệm
Dẫn nhập:
Đầu thập niên 60, một phong trào văn học âm thầm du nhập từ Pháp vào Việt Nam : Tiểu thuyết mới (Nouveau roman). Người viết là chứng nhân bất đắc dĩ của sự thâm nhập nầy từ những bước đầu. Được sự đồng ý của nhà phê bình văn học Nguyễn Vy Khanh, chúng tôi xin sử dụng trích đoạn dưới đây của tác giả để bạn đọc có vài khái niệm vể quan điểm văn học của Tiểu thuyết mới trước khi đi vào phần “lược sử” (historique) như “một kỷ niệm” về sự hình thành của phong trào nầy tại Việt Nam.

(…) Rồi sau làn sóng hiện sinh thời thượng là mốt "tiểu thuyết mới" đến từ Pháp với Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, hoặc điểm trang thời thượng với Nguyễn Xuân Hoàng,.... Một loại "phản tiểu thuyết", nói như Jean-Paul Sartre, đối thoại và độc thoại cùng tình cảm nội tâm trộn lẫn, thứ tự thời gian đảo lộn, không cần đến cốt truyện, có khi không cả người kể. Nhân vật thường ở ngôi thứ ba (il, elle, on). Một thế giới rất "khách quan", ở ngoài! Các tác giả của phong trào muốn diễn tả những cái nhỏ nhặt, tầm thường, như cái gôm và cả tâm hồn con người là những sự những cái di chuyển, biến động không ngừng và biết đâu đó chính là mầm của sự sống! Ở đó con người ta sẽ tìm ra cái mênh mông của đời sống nội tại! Ngôn ngữ làm hư sự vật, sự sống, làm sai lạc tình cảm nhưng ngôn ngữ sẽ được dùng cùng phản ứng bản năng để nhận thức, tiếp cập sự vật, sự sống! "Tiểu thuyết mới" như tiên đoán một thời đại bất khả cảm thông, đầy bất trắc, trong khi truyện thật ngắn thu gọn hy vọng còn sót lại và đưa ra một diễn văn máy móc, vội vàng. Mặt khác tiểu thuyết mới có yếu tố thi ca, văn như là thơ với Michel Butor. Tiểu thuyết mới nói đến một cuộc đời đang hình thành, đang thai mang cho con người do chính con người đi tìm, làm ra, xa hơn là một kiếm tìm định nghĩa tương giao với tha nhân - trong khi tiểu thuyết "cổ điển" tả một câu chuyện với những nhân vật "dính" với câu chuyện, một xã hội với những con người đã có tương quan với nhau! Nay "tiểu thuyết mới" còn lại cái nội dung tìm tòi của phận người ngày càng cô đơn bất khả cảm thông, hình thức mất đi hấp dẫn vì như trật đề, không đủ thuyết phục!
Phong trào "tiểu thuyết mới" của Paris và tiểu thuyết hiện đại Hoa Kỳ cũng lan rộng đến Sài-Gòn - một thử nghiệm khác, hiện đại và quốc tế, nhưng vong hóa thêm cái hồn Việt Nam. Nói vong hóa phải kể thêm những "anh hùng ca" sử thi của văn học miền Bắc cộng sản từ 1945 đến gần đây. Phái này thường bị xem là vô nhân hóa tiểu thuyết, vật hóa cuộc đời. Chỉ có sự vật, con người không ra gì, không đáng nói đến! Alain Robbe-Grillet, "giáo hoàng" của tiểu thuyết mới, người từng được R. Barthes gọi là "tiểu thuyết gia của cái nhìn khách quan" (romancier du regard objectif), đề nghị tiểu thuyết mới để đáp ứng với cuộc sống mới, nơi đó thế giới hết vững lặng, hết còn ý nghĩa hiển nhiên, con người vừa chính diện vừa phản diện, đổi luôn và đầy trục trặc. Hết cái thời tiểu thuyết với nhân vật có cá tính như những nhân vật của Balzac chẳng hạn, vững vàng và rõ nét.
Hoàng Ngọc Biên với tập Đêm Ngủ Ở Tỉnh (1970) và một số truyện đăng trên tập san Trình Bày như Chuyến Xe và Người Đạp Xe Vào Thành Phố Buổi Sáng - sau xuất bản ở ngoài nước năm 1997, viết theo khuynh hướng mới này. Chuyến Xe là độc thoại của một người ngồi ở công viên chờ một chuyến xe lửa nào đó, không rõ lý do, nguồn cơn! Nhà văn như viết cho riêng mình rồi tình cờ đem xuất bản! Cũng như Huỳnh Phan Anh trong hai tập Người Đồng Hành (1969) và Những Ngày Mưa (1970) và tập Phía Ngoài (1969) in chung với Nguyễn Đình Toàn. Trong các truyện tiểu thuyết mới này, tác giả của chúng vẫn có phần riêng bản sắc, có nhân vật và con người không hoàn toàn bị vật hóa, kiểu tả "cái máy pha cà phê để ở trên bàn" mà những nhà phê bình văn học Pháp chống khuynh hướng vẫn hay nhắc đến! Không khí tác phẩm của Huỳnh Phan Anh, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đình Toàn,... gần với khuynh hướng tiểu thuyết mới ở Âu châu, trong khi thế giới của Nguyễn Xuân Hoàng không hẳn cùng khuynh hướng vì trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của ông, tính cách tự thuật và lãng mạn cũng như văn phong tạp bút thật sự lấn át tính cách khách quan của tiểu thuyết mới! Cũng như một số tiểu thuyết thời này tự cho là hiện sinh thật ra chỉ là những bắt chước bất thành, những sẩy thai hay sanh thiếu tháng mà thôi! Chúng tôi muốn nhắc đến những Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng, Sám Hối, Đàn Ông Đàn Bà của Minh Đức Hoài Trinh , v.v. Hiện sinh dễ dãi! (…)
(Référence:
Nguyễn Vy-Khanh. Văn Học Việt Nam Thế Kỷ XX : Một Số Hiện Tượng Và Thể Loại. Glendale, CA: Đại Nam, 2004. Ch. 3- Tiểu thuyết , trang 141-144.)
***
Sau khi được đọc các bài viết của Nguyễn Quốc Trụ về tiểu thuyết mới ở Việt Nam, đăng trên Tạp chí Văn (bộ mới, số 3 & 4) tôi liên lạc điện thoại viễn liên với Hoàng Ngọc Biên, chủ ý chỉ là tán dóc với bạn già, nhân có người nhắc đến Tiểu thuyết mới và nhắc tên bạn trên báo.
Cho tôi dài dòng đôi chút trước khi vào chuyện.
Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đăng Thường và tôi là bạn thân từ những ngày ở đại học. NĐThường, tôi ít khi gặp lại sau này. HNBiên thì cho tới nay thỉnh thoảng vẫn còn liên lạc. Gặp nhau chỉ trên điện thoại -mãi cho đến 3 năm trước đây, hai đứa mới được gặp mặt nhau sau 30 năm xa cách tại San Jose- chúng tôi nói chuyện nắng mưa, nhắc chuyện sách vở, tên bạn bè…Thời ấy, thân hay sơ, những anh em sau đây đều là chỗ quen biết nhiều: Nguyễn Xuân Hoàng, Triết khóa1962, kế khóa tôi, Huỳnh Thanh Tâm (Huỳnh Phan Anh), Triết khóa 1965 và Nguyễn Nhật Duật, Triết khóa sau cùng 1966 ở Đại học Dalat, rồi Nguyễn Đình Toàn, cũng là chỗ rất thân thiết với Cung Tiến và Kiệt Tấn. Và là người tôi có cảm tình nhiều nhất.
Nguyễn Quốc Trụ (Sơ Dạ Hương) thì năm 1966 tôi có dịp gặp trong một quán bia kế nhà Kiệt Tấn ở đường Bạch Đằng (Hàng Xanh), Gia định. Tối hôm đó, Kiệt Tấn, Sơ Dạ Hương bàn về Tiểu thuyết mới. Chuyện có thể đã trở thành giai thoại, là vì chữ “nouveau roman” lặp đi lặp lại, mà cả ba chúng tôi suýt bị du đãng vùng Long Vân Tự chém, chỉ vì hắn hiểu lầm là bọn tôi dùng tiếng Tây để chửi hắn. Xém chút nữa phong trào Nouveau roman ở Việt Nam có ba thánh tử đạo!
Trở lại câu chuyện điện thoại viễn liên với Hoàng Ngọc Biên.
Hơn 40 năm đã trôi qua, HNB nói, Tiểu thuyết mới đã cũ, nhắc lại cũng thấy vui, nhưng chuyện “đi vào phong trào” (như người ta vẫn nói) bây giờ như kỷ niệm, nói sao cho hết! Bởi vì thật ra mình không đến với Tiểu thuyết mới như một nhà báo, hay như một giáo sư, bằng ngõ đọc bài viết trong báo Tây, rồi, chẳng cần để thì giờ tiêu hóa, đem giới thiệu với người Việt Nam. Mình đọc tiểu thuyết mới như người đọc thường, ban đầu là một mình, và sau đó cùng chia sẻ với NĐThường. Có thể mình đi vào Tiểu thuyết mới trong khi chúi mũi vào những ngăn sâu nhất của những kệ sách bị Nhà Albert Portail ở Catinat bỏ quên, ở đó trước tiên mình bê về nhà được các cuốn bìa đã ngả vàng: Le Tricheur, La Corde Raide Gulliver của Simon, xuất bản năm 45, 47 và 54, không phải Nhà Minuit xb.; Passage de Milan, hình như Nxb Grasset và La Modification
(chưa có nhãn Giải thưởng Renaudot) của Butor. Đó là vào mùa hè mình bước vào năm đại học đầu tiên. Ở Việt Nam người ta đang đi vào cơn sốt văn chương dấn thân…
Tôi hỏi HNBiên về các cây viết được đề cập trong bài viết của Nguyễn Quốc Trụ. Biên nói đều là chỗ quen biết ít nhiều, anh không rành lắm về những con người, nhưng thấy cái viết của những anh em đó rõ ràng có thay đổi kể từ cuối 1969, đầu 1970. Và, HNB nói, như thế là vui. Biên cũng cho biết hồi anh cho xuất bản Đêm ngủ ở tỉnh ở Nxb Cảo Thơm, NĐThường có viết một bài “đìểm”. Mới đây NĐThường copy cho anh một bản, đọc lại thấy một NĐThường rất bạo, rất dữ. Nhưng như thế cũng vui, Biên nói, và có hứa sẽ copy cho tôi một bản đọc chơi.

Sau lần nói chuyện ngắn ngủi với bạn, suốt đêm tôi thao thức tự trách ngày xưa hồi ở chung với biên trên gác trọ đường Phan Đình Phùng Dalat, tôi đã quá “lạnh nhạt” trước nhiệt tình của Biên khi anh chàng kiên nhẫn giới thiệu Tiểu thuyết mới của Pháp với tôi. Hồi ấy, tôi còn quá “cổ điển”, bước ra khỏi Terminales, tôi vẫn còn vương vấn với những bài giảng (Philo) nổi tiếng của thầy Pierre Ansart, vẫn mê Sartre, Camus…và nặng nợ với trào lưu “văn chương dấn thân”.
Nhưng tôi vẫn không quên Biên là người đầu tiên giới thiệu với tôi tác phẩm L’Emploi du Temps, xuất bản năm 1956, của Michel Butor. Tôi không dám quả quyết lúc ấy chỉ có mình Biên biết tới phong trào Tiểu thuyết mới ở Pháp. Nhưng tôi có thể xác nhận, ít ra trong giới sinh viên, quả thật tôi biết chỉ có mỗi một mình Biên để ý và say mê phong trào này. Năm 1959, có thể trước hơn nữa không chừng, Biên đã bắt đầu viết theo kỹ thuật viết Nouveau roman. Mấy năm trước Kiệt Tấn có nhắc kỷ niệm thời ấy giữa Biên và tôi trong Nằm tròn trong đáy mắt: «Trong bốn người, Hoàng nói nhiều nhất. Gã rất mê phong trào nouveau roman của Pháp với Alain Robbe-Grillet, Michel Butor. Có lần Hoàng (HNB) đã phủ kín mười trang giấy để mô tả một cái bìa sách và viết cả một truyện ngắn để theo dõi một vệt nắng di động trong lớp học; Thạch (Lộc) đọc xong ngửa cổ lên trời than thở: “Mày làm tao sốt ruột quá trời!” Ngược lại hoàng chê Thạch và cả bọn triết gia là một lũ phù thủy ngôn ngữ, chuyên vật lộn với các định nghĩa và lý thuyết không tưởng…»

Năm 1960, từ Pháp tôi gửi về cho Biên bốn quyển sách: Degrés của Butor, Dans le labyrinthe của Robbe-Grillet, Le Planétarium của Sarraute, và La route des Flandres của Simon, mặc dầu thời gian ở đường Phan Đình Phùng Dalat với Biên, năm 1959, tôi biết Biên đặt mua sách mới từ Nxb. Minuit, và nhà xuất bản này không tháng nào là không cập nhật hóa hoạt động xuất bản của mình và gửi tới đường Phan Đinh Phùng! Tôi thành thật thú nhận chưa hề đọc các tác phẩm này. Và tôi tin đó là những quyển sách chưa bày bán ở các nhà sách tại Việt Nam. Và bởi tôi biết HNBiên và NĐThường vẫn chuyển cho nhau sách báo tiếng Pháp từ nhiều năm trước đó, kể cả khi hai người ở hai thành phố khác nhau, trước cả khi tôi gặp và quen Biên, tôi cũng tin Thường và Biên là những người VN đầu tiên (ở VN) đọc các tác phẩm đó.
Riêng biệt hiệu “Biên-Butor”, nó đã có từ năm 1959, do tôi tặng cho Biên (tôi thường gọi tắt: B.B.). Biệt hiệu này thời ấy cũng được nhiều bạn đồng môn biết tới, vì có một thời, tôi nhớ Biên đi đâu với tôi cũng đem theo
L’Emploi du Temps!
Tôi nghĩ Đêm ngủ ở tỉnh, tuy xuất bản năm 1970, thực sự đã manh nha từ năm 1959, trên gác trọ của Biên và tôi, đường Phan Đình Phùng Dalat. Có nghĩa là Biên đã thực sự viết theo lối Tiểu thuyết mới từ năm đó. Và, quả thật, tôi hoàn toàn đồng ý với Nguyễn Quốc Trụ, người xứng đáng “đại diện” cho Tiểu thuyết mới ở Việt Nam phải là Hoàng Ngọc Biên. Cho tôi nói tiếng Tây một tí: “Il faut lui rendre cette justice”…
Bỏ qua việc HNBiên có thành công hay không với công việc mình chọn lựa và tác phẩm của mình, phải nhìn nhận lúc bấy giờ tại Việt Nam chỉ có Biên viết theo quan điểm Tiểu thuyết mới tại Pháp, theo lý thuyết văn học phát động bởi Alain Robbe-Grillet, chẳng hạn.
Khi viết xong những dòng này, tôi nghĩ tôi đã làm được một việc nhỏ: qua một kỷ niệm thời đèn sách ở đại học, ít nhiều tôi đã làm sáng tỏ thêm một góc hoạt động của bạn tôi, tuy riêng, nhưng hẳn là đã có phần đóng góp chung như chúng ta đã thấy…

Thôn trang Rêu Phong, Xứ Tuyết, cuối thu…
Lê Tấn Lộc