Monday, September 12, 2011

CHỐN ẤY ANH EM, ÔI CẢM TÌNH!

Sổ tay hành trình

CHỐN ẤY ANH EM, ÔI CẢM TÌNH!
Hãy cứ cho thêm, hãy còn cho mãi
Mai ta đi nào kịp vẫy tay chào
Chuyến đi Cali lần nầy, tôi hoàn toàn không dự tính trước. Đây là lần thứ ba tôi đến Little Saigon, vùng đất được mệnh danh là “Thủ đô của dân tị nạn Việt Nam”.
Trên chuyến bay về hướng phi trường Los Angeles, tôi thực sự lấy làm lạ sao mình có thể tới miền đất thuộc Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nầy đến những ba lần. Nào phải tôi “quyến luyến” gì người Mỹ đâu! Trái lại là khác.
Ba mươi mốt năm về trước, ra khỏi địa ngục trần gian “cải tạo”, làm “thuyền nhân” trôi dạt vào trại tị nạn Galang (Nam Dương), tôi “được” một viên chức người Mỹ trong phái đoàn Cao Ủy Tị Nạn (HCR) “phỏng vấn”, nội dung như sau:
-Ông có làm Sở Mỹ không? Ông có thân nhân bên Mỹ không?”
-Thưa không! Nhưng tôi có làm việc trong lãnh vực giáo dục với người Mỹ. Và người Mỹ có “lâm trận” với tôi và các đồng đội của tôi trên đất nước tôi, chống cộng sản xâm lược miền Nam Việt Nam!
-Thế thì chúng tôi rất tiếc thông báo: ông không đủ tiêu chuẩn đi định cư ở Mỹ!
-Thưa ông, ngoại trừ sự kính trọng của tôi đối với vị đại diện chính quyền Hoa Kỳ, xin ông cho tôi được nói thẳng thừng với ông rằng tôi không hề có ý định xin định cư ở cái xứ “chết tiệt” của ông, sau khi các ông bỏ rơi anh em chúng tôi cho CSBV “làm thịt”!-Ấy chết! Xin ông bớt cơn thịnh nộ. Đây là chính sách di dân của chính phủ đương nhiệm của chúng tôi. Riêng cá nhân tôi và một số chiến hữu của tôi đã phục vụ ở VN, chúng tôi rất cảm thông hoàn cảnh bi thiết của dân miền Nam VN sau ngày 30 tháng 4 năm 1975; cũng như chia sẻ niềm uất hận của ông đối với người Mỹ chúng tôi…
Ấy vậy mà tôi lại “hồ hởi” lên đường Cali du lần thứ ba! Cái gì lôi kéo, thúc đẩy tôi đến chốn phồn hoa đô thị, được “vinh danh” là “kinh đô sành ăn” (capitale “gastronomique”) nầy? Chắc không hẳn chỉ vì thèm ăn…ngon thôi đâu, dù tôi rõ biết dân thích ngon miệng từ những vùng lân cận, cũng như từ các tiểu bang khác, cuối tuần thường đổ xô về đây kiếm…ăn, gây tình trạng tắt nghẽn lưu thông khá bực bội!

Mục tiêu tiên khởi của tôi trong chuyến du hành lần nầy là ước muốn gặp lại một số cựu đồng nghiệp đã từng cộng tác với Trường Phục Hưng, đường Lê Ngô Cát (Sài Gòn), nhằm động viên tinh thần anh em tiếp sức khuếch trương Trang Nhà của Trường, vừa mới hình thành được vài tháng, mà cho tới nay mới chỉ có em cựu học sinh Trần Đức Diên và tôi góp công sức gầy dựng. Em Phạm Văn Sinh, một cựu học sinh khác -thổ địa vùng Cali- là người hăng say nhứt đề nghị tôi lên đường “du thuyết”…Sinh tình nguyện làm “cận vệ” đưa tôi “an toàn đi khắp Cali” tái ngộ với các thầy và các trò. Nghe qua bùi tai, nức lòng “ông đồ già kiêm lính yếu” biết mấy! “Thầy cứ yên tâm!” Mọi thứ để em lo liệu! Thật không em? Chờ xem…

Ngoài mục tiêu tiên khởi, thiết nghĩ cũng đã tới lúc tôi gặp lại anh em (sau 2 lần tới Cali vào năm 1994 và 2005), những anh em một thời đã từng chia ngọt xẻ bùi, vào sanh ra tử có nhau…Nhứt là để đến viếng đáp lễ và tạm trú nhà Túy-Lê -“Nữ-bá-tước-chân-trần” -người bạn lâu đời từ Đà Lạt cách đây đã hơn 50 năm, thuở còn là sinh viên, người bạn đã 3 lần bay sang viếng “căn nhà ngoại ô” vùng “Rêu-Phong” (Pierrefonds), nơi khá lâu rồi tôi đã gác kiếm rửa tay…tu chai dưỡng sức!

Chưa kể cần đến Anaheim gặp thiện nguyện viên Nguyễn Trọng Ngữ -đã có mối thâm giao với nhau từ 27 năm về trước tại Xứ Tuyết Canada- nhằm xúc tiến việc thực hiện hai tuyển tập Một Lần Toan TínhGối Rơm mà, trước đó vài tháng, Ngữ đã đề nghị sẵn lòng in ấn giúp tôi, trong lần tái ngộ sau một buổi họp Dòng Phan Sinh Tại thế Vùng Montréal…
-o-o-o-
L
ấy xong hành lý, nhìn dáo dác chẳng thấy ai đến đón rước, “nội tướng” Phước và tôi cảm thấy hơi lo…Lẽ nào em cựu môn sinh yêu quí của tôi quên? May thay, tôi chợt nhận ra một dáng dấp thân quen -với đôi kính râm khá đặc biệt- đang thấp thoáng ngoài hành lang chờ đợi hành khách xuống phi trường: Túy! Theo sau là Nguyễn Ngọc Phát, cựu cộng sự viên của tôi ở Khu Học Chánh Vùng III, trước 75. Chưa thấy Sinh đâu hết! Một lúc sau, thầy trò bỡ ngỡ nhìn nhau giây lâu, hết nhận ra nhau sau gần 30 năm bặt tin, trước khi xúc động cùng choàng ôm, mừng mừng tủi tủi…
Rất tháo vác và nhanh nhẹn, Sinh tóm gọn hành lý cồng kềnh và…nhóm người “có tuổi” chúng tôi vào chiếc Toyota SR5, luồn lách qua đường phố đầy dẫy xe cộ lưu thông quanh phi trường, tuôn ra freeway “vọt” đi như phóng hỏa tiễn! Ngồi cạnh tài xế, tôi lên ruột từng cơn như đang chơi trò nhào lộn trên xe lửa ngoằn ngoèo leo dốc tuột dốc ở Wonderland! Nói chi tới Phước, Túy, Phát ở hàng ghế sau, mặt mũi chắc đã xanh dờn, chẳng còn chút máu! Tôi có cảm tưởng Sinh “lạn” chiếc 4 runners như lạn xe gắn máy Honda ở VN! Xẹt qua xẹt lại, đổi lane lia chia, luồn qua, lách lại với tốc độ trên trăm cây số/giờ mà chẳng hề cần giảm tốc độ! Có lẽ Sinh muốn cho tôi “nếm thử thương đau” sơ khởi kiểu lái xe skyriders hay cascadeurs mà Sinh sẽ biểu diễn để “hộ tống” tôi “an toàn đi khắp Cali” trong những ngày tới …chăng?
Nhờ ơn Trời Phật, sau 90 phút chơi trò “đi dây tử thần” trên “đại lộ kinh hoàng”, chúng tôi an toàn ghé bến Mì La Cai “dùng thiệt tình” món mì cật heo trứ danh, do tài xế “đu bay” Sinh “bồi dưỡng”, giúp các hành khách “lão thành-thành lão” thu hồi “hồn phi phách tán” của mình còn thất thểu ngoài Phờ-ri-ủ-ê! Hú vía! A Di Đà Phật! Alléluia!

thực mới “giựt” được đạo! Vui ăn chớ quên hết nhiệm vụ, tôi đề nghị Sinh chụp ảnh chung để gởi dần cho Diên chuẩn bị đưa lên Trang Nhà Phục Hưng, sau khi Sinh đưa tôi đi gặp hai đồng nghiệp Nguyễn Xuân HoàngNguyễn Sỹ Thân ở San Jose. Nhưng Sinh dứt khoát từ chối, “vì lý do an ninh nghề nghiệp” (?!). Sinh giải thích nhưng cũng chẳng soi sáng thêm chút nào cho tầm hiểu biết “chậm tiêu” của tôi! Thôi thì đành ngầm hiểu Sinh có những lý do riêng rất chính đáng để không muốn “dung nhan” mình xuất hiện trên báo, cho dù là báo điện tử hay Web Phục Hưng. Khó khăn, trở ngại đã bắt đầu ló dạng rồi đây! Quả nhiên!

Sau khi đưa chúng tôi về nhà Túy, chuyện trò rất vui vẻ (Sinh kể rất nhiều kỷ niệm xưa về trường Phục Hưng cho mọi người thấy Sinh cũng như các cựu PH rất thương quí tôi), Sinh “tiết lộ” không có thì giờ ngơi nghỉ, làm việc bù đầu để cùng một nhóm bạn tạo dựng một công ty đang trên đà phát triển…Trước mắt, ngày mai Sinh phải bay cấp tốc lên Houston, TX…Thôi thì cũng đành ngầm hiểu thêm điều nữa là…cố nhiên Sinh rất bận với công việc đa đoan. Tội nghiệp em nó vất vả quá. Thông cảm, thông cảm!
Rõ ràng từ nay trở đi tôi phải tự xoay sở để tìm gặp đồng nghiệp xưa và môn sinh cũ. Cũng như phải tự lo liệu chuyện “an toàn đi khắp Cali”! Trước mắt, mọi di chuyển trong phạm vi Orange County, cựu Thanh tra Phát sẽ giúp tôi, như đã từng đưa tôi đi “thăm dân cho biết sự tình” khắp Khu III Học Chánh trước đây! Phát cũng suýt soát thất thập cổ lai hi rồi, cũng không mạnh khỏe gì cho lắm.
Quả thật tôi vẫn còn may mắn có được những người bạn yêu thương, bận tâm “chăm sóc”, hỗ trợ khi cần, những người bạn trung kiên trong tình tương thân, tương ái -mà Phát là một biểu tượng điển hình- lúc còn làm việc chung cũng như lúc tôi ngồi tù “cải tạo”, ra tù, vượt trùng dương tìm tự do, định cư và giờ đây, khi tôi chới với, hụt hẫng nơi vùng đất không quen thuộc mà ngôn ngữ Shakespeare là một trở ngại khá lớn cho con người đã quá quen sử dụng ngôn ngữ Molière!
Vẫn hay những lúc khó khăn, trắc trở mới nhận biết giá trị nhân ái đích thực của một người bạn…
***
C
huyện “nối vòng tay lớn” với các cựu Phục Hưng coi như bất thành, vì thành viên năng nổ nhứt có thể tiếp tay hữu hiệu cho tôi chu toàn “sứ mạng” lại bất khiển dụng “vì lý do kỹ thuật” vào giờ chót, ngoài dự liệu! Bù lại, liên tiếp bốn cuối tuần, Phát đưa tôi đến họp mặt tại Café Cali với anh em cựu giáo chức đã từng (cũng như chưa từng) quen biết nhau từ lúc còn ở VN: Cựu “cấp trên” của tất cả anh em đến họp mặt, TS Nguyễn Thanh Liêm, nguyên Thứ Trưởng Giáo Dục, các cựu Thanh tra Nguyễn Văn Ngàn, Bùi Phong Quang, cựu Chánh Sở Học Chánh Bạc Liêu Huỳnh Trung Nghĩa, cựu Phó Ty Giáo Dục Vĩnh Long Đỗ Hữu Ngạn, cựu Hiệu Trưởng Mạc Đỉnh Chi Sàigòn Lý Di, cựu GS Quốc Gia Nghĩa Tử Sàigòn Nguyễn Lộc Thọ, cựu GS Petrus Ký Nguyễn Hồng Đảnh, cựu GS Petrus Ký, BS Nguyễn Sơ Đông (đến từ Virginia), cựu GS Trường Sư Phạm, Viện Đại Học Cần Thơ, Nguyễn Sanh Biên (đến từ Florida),v.v…quay quần bên nhau, tay bắt mặt mừng, quen trước cũng choàng ôm tôi, chưa quen cũng choàng ôm luôn, trước lạ sau quen mà! Thân thiện y như lúc cùng làm việc ở các Hội đồng thi Tú tài, trước 75. (Ngàn, Quang, Thọ, Đông là cựu đồng môn với tôi ở Chasseloup-Laubat, tiền thân của Jean-Jacques Rousseau). “Ấm lòng chiến sĩ” xiết bao, nơi xứ lạ quê người! Số tôi vẫn còn đỏ!

Người bạn đầu tiên của Túy đến thăm chúng tôi là Thủy Tú, một thiếu phụ thanh lịch, nói năng điềm đạm, trong giao tiếp vẫn còn giữ được nhiều đặc điểm của người phụ nữ Á Đông. “Nàng Tiên Bé Nhỏ”-biệt danh của Thủy Tú- là người bạn học thuở mười lăm của Nguyễn Xuân Hoàng nơi “miền quê hương cát trắng” Nha Trang. Cung cách của nàng như đã biểu lộ trung thực danh tánh nàng mang vào đời: Thủy nhưng Tú, Tú nhưng Thủy…
Dạ Yến là người bạn thứ hai của gia chủ tới vấn an du khách đến từ Mộng Lệ An. Khác với người nữ Nha Trang còn chút rụt rè, thiếu phụ đất Thần Kinh nầy, trong tiếp xúc rất nồng nhiệt, đi thẳng vào đề, trực ngôn, không né tránh hay kiểu cách dùng sáo ngữ. Trò chuyện với nàng không lúc nào chúng tôi không cười lăn nghiêng lăn ngửa, dù Dạ Yến đã năm lần bảy lượt lên bàn mổ cho bác sĩ giải phẫu! Thế nhưng không vì vậy mà nàng thở than, rên siết, kêu khóc, oán trách thân phận, “hận đời”! Tóm lại, nụ ười không hề tắt trên môi người phụ nữ mà nét kiều diễm phảng phất nhiều nét rất tây phương, nhưng phong cách rất thanh thoát. Dạ Yến khi xưa gầy dựng được nhiều cơ ngơi khá “đồ sộ” ở Cali. Nhưng rồi tất cả cơ nghiệp đó dần dà đi vào hố thẳm “quên lãng” của thời gian…Lần nầy nàng trở về Cali để chờ …lên bàn mổ lần nữa!

Những ngày không đi họp bạn, sinh hoạt thường nhật ở căn nhà “tí hon” của Túy thật vui nhộn và ấm cúng. Những láng giềng của Túy quá tốt bụng, lúc nào cũng sẵn sàng trợ giúp cô bạn khả ái của tôi đang sống một mình trong căn phố nằm trên đường Belfast -mà bạn bè tôi thường đặt tên đùa là Con Đường Nổi Loạn, vì mang tên thủ đô của Bắc Ái Nhĩ Lan- thuộc thành phố Garden Grove, các con của Túy tứ tán khắp nơi, đứa Canada, đứa Mỹ, đứa còn ở lại VN…
Sáng sớm thức dậy, tôi lui cui xếp chiếc giường con mà ban đêm tôi phải vất vả lôi ra từ căn buồng của gia chủ -cũng rất nhỏ hẹp- mở ra, trải dài trong phòng khách ngả lưng đi vào cõi mộng mơ. Phước ngơi nghỉ trên sofa kế cận, Túy vào “chuồng” bé tí ti của mình. Tôi thường ngủ trễ và khó ngủ nên được thưởng thức đều đặn tài nghệ của hai nữ nhạc công: kèn trompette hòa tấu không ngưng nghỉ với saxophone trong đêm thanh vắng! Nhờ vậy tôi lịm dần trong “giấc ngủ cô đơn” về sáng. Có thể tôi cũng thổi clarinette lúc nào mà không hay biết!
Điểm tâm qua loa, “Quan Công (tôi) phò nhị tẩu” xuất hành cuốc bộ để bảo trì sức khỏe cho còn có thể vui vẻ họp bạn khá nhiều lần trong những ngày tới! Khu Túy cư ngụ nhà cửa rất “dễ thương”, nhà nào cũng cỏ cây hoa lá cành xum xuê, hầu hết cư dân là người Việt. Đẹp nhất là giàn bông giấy đỏ thắm gần nhà thờ, tiếp giáp khu chợ Đại Hàn. Quan Công và nhị tẩu thường ngồi bệt trên lề đường, dưới giàn bông giấy rực rỡ đó, vừa nghỉ chân vừa tránh nắng! Chạnh nhớ “…bất cứ thành phố nào còn lưu lại trong ký ức chúng ta đều là thành-phố-mang-tên-em, bất cứ con đường nào ta đã đi qua cũng đều là con-đường-xưa-em-đi…” (*) , tôi khe khẻ ngân nga:




con đường mộng hoa xưa
vẫn từng đôi từng lứa.
con đường vào mộng mơ




con đường mặn mà




Bộ ba, sau đó dạo quanh các chợ Đại Hàn mua ít thực phẩm về trổ tài “cordon bleu” nấu nướng “bồi dưỡng” -được chút nào hay chút nấy- cho thân xác đã “hằn lên” dấu ấn khó phai mờ của thời gian…

Trước sân nhà Túy, thảm cỏ xanh mượt, tươi tắn, rất bắt mắt, lôi cuốn hàng xóm đến ngả lưng phơi nắng trên băng ghế xích đu độc nhất trong cả khu, hoặc trên băng ghế sắt đối diện, thưởng thức cà phê buổi sáng, hay nhâm nhi bia lạnh buổi chiều khi nắng còn le lói, chuyện trò bù khú, cười đùa rôm rả. Thành, Đoàn Đệ, Ngọc đi làm về, cơm nước xong là tự động ra ngay điểm hẹn thường nhật nầy với “Quan Công và nhị tẩu”! Nhà Thành sát nách nhà Túy. Và Thành thường xuyên phụ giúp Túy bảo trì mọi thứ trong nhà, chăm sóc cây kiểng mỹ miều đủ loại, điểm tô sân trước và sân sau nhà. Hình ảnh quen thuộc với tôi là vừa về tới nhà sau suốt một ngày quần quật với công việc ở nhiệm sở, Thành vẫn hăm hở mở vòi nước…tưới cây hơn cả tiếng đồng hồ! Thành rất vui tính, luôn sẵn sàng giúp đỡ người chung quanh. Nhờ Thành, suốt thời gian ở Cali Phước và tôi tham dự đầy đủ các Thánh lễ Misa. Rõ ràng tôi vẫn còn may mắn được “quới nhơn phò hộ”!
***
M
ới đó mà đã một tuần trôi qua! Gần như Phát đều đặn đến Con Đường Nổi Loạn “phò” Quan Công và nhị tẩu đi “bồi dưỡng” dài dài, hết phở gà, phở bò quá tuyệt, tới croissant, pâté chaud, cà phê sữa đá “Coeur de Paris” trứ danh, tới luôn cơm chay Bồ Đề trong khuôn viên Little Saigon!
Trước nguy cơ nếu không “phát ách” cũng phát phì tới nơi, Túy đề nghị du ngoạn Sea Word ở San Diego. Để Phát ở nhà nghỉ xả hơi, bộ ba chúng tôi qua Ramada Inn lấy vé đi Tour. Cuốc bộ khắp khu đầy nghẹt du khách danh tiếng nầy, dưới cái nắng nung nấu, cả ba mồ hôi vả như tắm, sụt ký thấy rõ! Đã thế, tôi còn kiểu cọ tìm cảm giác mạnh (như chưa đủ chữ với tài xế đu bay Sinh chăng?), lên tàu leo dốc, đổ dốc…đứng tim chơi (chơi dại thiệt, tôi đã mổ tim vì …nhồi máu cơ tim 16 năm trước đây), dù nhị tẩu hết lời cản ngăn! Qua cơn sốt ruột chờ tôi xuống tàu, nhị tẩu ôm bụng cười hăng hắc nhìn tôi mặt mày tái mét, lê từng bước một, lảo đảo ôm ngực thở dốc, ngồi bệt xuống nền xi măng sủng ướt, bên cạnh một thiếu nữ ngất xỉu đang được cứu cấp! May là không bị heart attack. Già mà còn ham!

Về tới nơi lại…ăn! Châu, Kim Anh, Văn Đệ “lực sĩ đẹp”, bạn của Túy rủ nhau đi ăn bún chả Hà Nội ở… Cali! Cơ hội rất tốt và rất vui cho tôi được dịp trò chuyện với Đệ, một cựu chiến hữu, cựu đồng tù cải tạo và…cựu “kiến càng” (vì có thời tôi đến rèn luyện cơ thể ở Phòng Tập Tự Do, Sàigòn). Xem ra hai chúng tôi rất tương đắc. Quả nhiên: Đệ đã đọc đi đọc lại nhiều lần hai tập truyện tôi tặng sau đó, và rất nhiệt tình chia sẻ nhiều điều với tác giả mới tập tễnh viết lách…

Lật bật đã tới ngày sinh nhật của Túy. Cũng là một trong những mục tiêu trong chuyến Cali du của chúng tôi: Lần đầu Túy đến thăm, Phước đã đứng ra tổ chức mừng sinh nhật Túy rất vui vẻ, với sự góp mặt của Hà và Thường, hai con của Túy, định cư tại Canada...
Phước đề nghị rời Pierrefonds sớm là để kịp thời góp mặt chung vui mừng sinh nhật của Túy tại Cali. Có lẽ Túy cũng rõ ý định của chúng tôi, nên lần nầy sinh nhật của Túy được tổ chức hai ngày liên tiếp, cả hai lần đều có Phát tham dự, với Thành và thân mẫu, Madame Quỳ cùng Ngọc-Đệ. Một lần ở restaurant Cát, mà sáng sớm hôm sau Thành và Phát phải thay phiên nhau cùng tôi tới trước quán canh chừng, chờ nhân viên phục dịch mở cửa là xông vào ngay tìm lại “hai bàn nạo” (prothèses dentaires) tôi đã sơ ý tháo ra, rồi bỏ quên trên bàn tiệc, sợ đến trễ họ dọn dẹp vứt vào thùng rác là mất toi hai ngàn đô! Đứng từ 8.00 am tới 11.00 am, sưng vù cả hai bắp chuối! Một kỷ niệm đẹp khiến tôi càng thêm cảm kích sự hết lòng “cứu giúp” bạn của Thành và Phát…
Lần thứ hai, BBQ trên thảm cỏ mượt xanh trước nhà Túy, do Ngọc và Đoàn Đệ lo liệu mọi thứ; bà con chòm xóm thân thương tham dự đông đủ, với sự góp mặt của một người bạn Mỹ rất thích người Việt xóm nầy: Ron, tay bế bồng cô bé Joy, một em Pékinoise rất xinh xắn… Quả thật Túy được mọi người trong khu vực quí mến như “cô láng giềng khả ái”! Văn nghệ bỏ túi tiếp nối, ra rít ra phết với dàn ca-ra-ô-kê tân kỳ -hiện tượng phổ biến quá rộng rãi nơi nào có người Việt tị nạn họp bạn!
***
N
hững ngày kế tiếp tôi tìm mọi cách bắt liên lạc với bạn bè đã quá lâu không gặp: Võ Trung Thứ (đang quá bận rộn dọn nhà từ San Jose và Las Vegas về Santa Ana), Lê Hoàng Tông, Lê Tấn Hội, Đặng Thanh Phong -những cựu đồng môn ở Collège de Vĩnh Long- và Nguyễn Văn Nhân, cựu phi công QLVNCH…
Hai buổi họp mặt được Tông chủ trì tại căn phố dành cho người cao niên rất khang trang, thông thoáng. Quí bà một bàn gần bếp, quí ông một bàn ngoài salon, cho dễ dàng hát bài “nam vô tửu như kỳ vô phong” mà không bị nhóm “yêu nữ” (người nữ đáng yêu!) kia “đạp thắng” tới cháy bố trên chưn cẳng quí tiên ông- ẩm sĩ, “nhắc chừng, cảnh cáo”, gây khó khăn, cản trở! Bởi lý do kỹ thuật đó mà Túy bị sung vào đội yêu nữ, Phát phải gia nhập cánh quân tu…chai!
Thứ, Tông và tôi, trước đây trong Ban Văn Nghệ Trình Diễn của Collège de Vĩnh Long. Bộ ba nầy thường gặp nhau sau khi rời trường mẹ, trước và sau 30.4.1975: Thứ và tôi, do căn duyên chăng, thường phục vụ cùng đơn vị (Sư đoàn 5 BB, Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH, v.v…). Tông và tôi thường xuyên duy trì liên lạc, khi còn ở quê nhà cũng khi xa lìa quê hương. Hội thì từ lúc gặp nhau năm 1955 ở Đồn Lạc Quới (Châu Đốc), nơi Hội trấn đóng khi ra Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, ít khi có cơ hội gặp lại sau lần tái ngộ ở El Toro (Lake Forest) năm 1994…Phong, cũng vậy. Với Hội và Phong tôi có vài kỷ niệm khó quên, không tiện kể ra, e ngại sấm sét nổi lên bất tử từ phía các bà!
Đôi ba lần Tông đề nghị Phước và tôi đến ở căn phố “mát mẻ” nầy, thường để trống vì Tông và Túc chỉ ở căn nhà đồ sộ trên El Toro. Nhưng chúng tôi vẫn thích khu “con đường nổi loạn” hơn, tuy nhà hơi chật chội nhưng ấm cúng và quá vui vì luôn nhộn nhịp. Vả lại ở chỗ Tông đề nghị, chúng tôi không có phương tiện di chuyển thuận tiện, vì khá xa khu thị tứ.
Lần họp mặt nầy, Phong thông báo một tin buồn: cựu đồng môn Bùi Văn Bảy, nguyên Thiếu tá, cùng khóa 10 VBQG ĐL với Phong, vừa vĩnh viễn giã từ anh em. Cựu đồng môn khác, Dương Kim Thoại cũng đã qua đời vài năm trước đây. Sinh lão bệnh tử, nào ai tránh khỏi...
Lần họp mặt thứ ba, cũng do Tông sắp xếp, chúng tôi gặp lại nhạc mẫu của Tông -cũng là mẹ vợ của anh ba Lê Tấn Lợi của tôi- vẫn còn mạnh khỏe và minh mẫn, dù tuổi hạc đã cao vút tầng xanh (104 tuổi!), trước khi đến dự tiệc tại nhà con gái của Tông trên dốc cao của khu đồi núi chập chùng San Clemente. Có Túy tháp tùng nhưng thiếu Phát, bận giữ…cháu ngoại.
Tông và Túc quả “sung túc” thật: con đông, cháu đếm không xuể! Không biết chàng và nàng có nhớ hết tên chúng nó chăng! Đông đúc thế mà trong ấm ngoài êm! Ngưỡng mộ và bái phục chàng và nàng quá đỗi! Đại phúc, đại phúc!
***
P
hát đưa Phước và tôi đến thăm vợ chồng Nguyễn Đình Toàn. Căn phố lầu của Toàn trông ra sân chơi một trường tiểu học luôn náo nhiệt với bọn trẻ chí chóe đùa nghịch đuổi bắt nhau, khiến đôi bạn già đỡ thấy “trống vắng”…Toàn có vẻ yếu hơn nhiều so với lần tôi gặp năm 2005, chị Toàn trông còn “sỏi" hơn.
Toàn “tiết lộ” cho tôi nhiều điều “khó khá” về cây viết Ham P Ác, chuyên “thách thức thần linh…đâm nổ mặt trời”:-Tao đã nhất quyết không nhìn mặt hắn, hai ngày sau 30.4.75, khi bạn bè cho tao biết hắn “quậy” các đồng nghiệp của hắn ở trường Nguyễn Trãi đến ngất ngư với đám cán bộ tới “tiếp thu” trường, Toàn nghiêm mặt nói. Mầy biết tao với hắn vốn rất thân. Thú thật, chính tao đã “lancer” hắn… Nhưng tao dứt khoát cắt mọi giao tiếp với hắn. Quả thật tao thất vọng ê chề về hắn! Tao không ngờ hắn tệ lậu đến thế! Làm cách mạng 30 xong, hắn bèn vượt biên nhưng bất thành. Vợ hắn vùi thây dưới đáy biển. Hắn xin định cư ở Mỹ. Rồi lại trở lộn về VN hăm hở tham dự đại hội nhà văn ở Hà Nội! Hắn còn nghĩ gì đến cô vợ đã bỏ mạng vì chế độ độc tài đảng trị đã xua nàng ra biển cả làm mồi cho cá nữa đâu! Nói hắn không lập trường chưa đủ. Hoạt đầu, có lẽ đúng hơn…
-Ham nổi tiếng, bằng mọi giá, chắc còn chính xác hơn nữa, tôi tiếp lời Toàn. Trao đổi với một đồng nghiệp đến từ Florida, lập trường dứt khoát như mầy (“Nếu phải chọn giữ vững lập trường mà đành cắt đứt liên hệ với người bạn lập trường chao đảo thì tôi không chút chi do dự”), tao nói với anh ấy và nói luôn với mầy cùng bạn bè của chúng ta rằng: dấu chỉ hiển lộ nhất về sự lương thiện tinh thần của con người là còn biết…xấu hổ! Khối thằng tự cho là trí thức mà nham nhở hết biết! Chữ “éhonté” sao mà quá chính xác: không biết xấu hổ, mặt trơ răng bóng! Nói nôm na là không biết hổ thẹn với lương tâm!
Toàn gật gù cười nhẹ. Có lẽ Toàn quá não nề về một số bạn, nếu không thay đổi màu da xoành xoạch như kỳ nhông thì cũng “chơi cha” trên đầu bè bạn. Toàn nói phớt qua về chuyện “chơi gác” Toàn của một ca sĩ thời danh đang đặc trách chương trình văn học nghệ thuật cho một đài truyền hình ở Mỹ. Tôi không lạ gì về “ngài” ca sĩ nầy, có thời là bạn đồng tù “cải tạo” với tôi…
Rất tiếc tôi không giữ được lời hứa trở lại thăm Toàn trước khi rời Cali để Toàn có cơ hội trổ tài nấu nướng đãi tôi một bữa cơm gia đình thanh đạm. Tôi nhớ mãi lời Toàn nhắn nhủ nên thường xuyên liên lạc điện thoại chuyện trò với nhau cho qua ngày tháng, vì ở tuổi quá thất thập chúng tôi có thể ra đi “no return” bất cứ lúc nào. Vô thường!..
***
Đ
ịnh ngồi xe đò Hoàng lên San Jose gặp Hoàng và Thân, sau khi liên lạc điện thoại, nhưng thấy trước không tiện, vì Hoàng vừa vợ bệnh vừa bận dọn nhà mà bản thân cũng không được khỏe, nên tôi còn chần chừ. Riêng Thân, tôi có phần e ngại vì 36 năm rồi bặt tin nhau và sau khi gửi điện thư nhiều lần cho bạn mà không được phúc đáp, chẳng biết đồng nghiệp khi xưa giờ đây có gì thay đổi trong tình thân chăng. Ngay khi vừa tới, gọi điện thoại nhắn tin cũng không thấy bạn tôi sốt sắng gọi lại.
Ngoài ra, một chuyện mất vui về Nguyễn Đồng Danh, thằng bạn nối khố, đồng hương Bạc Liêu -mà tôi dự tính lên tới nơi sẽ đến tá túc nhà nó- cũng khiến tôi chùn chân. Hình như bạn tôi không còn nhận ra tôi là ai nữa rồi! Cố ý làm ngơ để khỏi tiếp tôi hay “an-zai-mơ” lú lẩn?
Thêm vào đấy, H.N.Biên, thằng bạn rất thân ở Đại Học Sư Phạm Đà Lạt xưa kia, cũng khiến tôi khổ tâm, buồn lòng không ít, hết hứng thú đến San Jose: Câu nói của N.S.Biên xác định dứt khoát gạt bỏ tình bạn hơn là chối bỏ lập trường bảo toàn lý tưởng của mình tác động mạnh mẽ trên tâm tư tình cảm của tôi…
Cho nên, một lần nữa, chuyện nối vòng tay lớn Phục Hưng lại bất thành! Chỉ còn hy vọng mong manh NXHoàng ngồi xe đò Hoàng xuống gặp tôi thôi!

May thay, bỗng nhiên BPQuang nẩy ra sáng kiến mời các cựu đồng môn Triết Đại Học Sư Phạm Đà Lạt họp mặt “dàn chào” Lộc-philo-folie tôi tại tư gia. Quang cho biết đã mời NXHoàng (San Jose), Trần Quang Minh (San Diego), Trần Đức An (láng giềng của Quang), NLThọ, v.v…Các cựu philo khác (Nguyễn Ngọc Thọ, Nguyễn Văn Tốt…) ở Chicago và Florida không đến được. Dĩ nhiên một số còn kẹt ở quê nhà cũng vô phương đến họp bạn. {Chắc chắn Nguyễn (Trộn) Văn và sư phụ của hắn, Lý (Tránh) Trung, giáo sư “chết” lý -cho tới giờ nầy vẫn còn ung dung chết lý vì XHCNVN “u việt”- sẽ chẳng bao giờ dám vác mặt tới!}. Quang cho biết tất cả đã nhận lời…Nhưng vào giờ chót Hoàng báo không xuống Santa Ana được vì vợ trở bịnh nặng, Minh gửi điện thư cho biết cảm nặng vẫn còn dây dưa, không tiện xê dịch. Riêng An thì chỉ ngắn gọn nói với Quang: “Bận, không tới”.

Cũng vẫn Phát đưa tôi đến điểm hẹn. Trông Quang có vẻ gầy yếu hơn xưa. Bốn mươi năm rồi không có dịp gặp nhau, dù cả hai đều phục vụ ở Sài Gòn.
Cuối cùng buổi họp mặt cựu “Triết Đà Lạt” chỉ qui tụ được ba mống Triết: Quang, Thọ và Lộc, cùng với các cựu gõ đầu trẻ Ngàn, Nghĩa, Ngạn, Di, Nguyễn Hữu Phước và…Dương Ngọc Sum xanh xao, vàng vọt, hốc hác, hầu như sắp…”Sụm” tới nơi! Chuyện trò rôm rốp, cười cợt hả hê vì vắng mặt các bà. Nhưng mấy chai rượu đỏ quá ngon chỉ được Quang và tôi “chiếu cố” tận tình. Kỳ dư, nếu không thuộc hệ phái “trà đá chanh đường” thì cũng chẳng dám mó tới vì phải…lái xe!
An không tới, tôi có thể đoán trước. Hoàng “kẹt” vì lý do bất khả kháng, tôi có thể cảm thông, ngoại trừ còn lý do “bí ẩn” gì khác -mà nếu có thì…tôi cũng đành chịu thua thôi. Hai cựu giáo sư Phục Hưng nầy lẽ ra nên cố gắng tới gặp tôi: lần thứ ba “mộng ước” nối vòng tay lớn với các cựu Phục Hưng không thành! Chưa tới thời điểm hay đành phải chờ tới xương tàn cốt rụi?
Riêng với Minh tôi tự hỏi, ngoài chuyện cảm cúm ra, không biết thằng bạn đồng môn ở Jean-Jacques Rousseau và bạn cùng khóa I Triết ĐHSPĐL có buồn giận gì tôi mà tôi chẳng rõ chăng…
Thôi thì cứ cho là các bạn vắng mặt đều có lý do chính đáng để…vắng mặt vậy! Cho khỏi mất công suy diễn “linh tinh” vô bổ…nhức đầu, nhức cổ!
***
G
ọi điện thoại một vòng tìm những bạn cũ trước đây ở Montréal, hiện sang Cali sinh sống, tôi “tìm dấu” được nàng…Thơ -hồng nhan đa truân- mỹ nhân một thuở “người ngoài cười nụ người trong khóc thầm”, rất được giới văn nghệ sĩ thương mến (trong số, có Kiệt Tấn, đến từ Paris). Thơ mừng rỡ hẹn tới ngay thăm “người anh văn nghệ mà Thơ hằng quí mến”…Trông Thơ rạng rỡ hẳn lên, nét u buồn cố hữu thể hiện qua “môi cười mà lệ như rơi” dạo nào giờ như đã tan biến qua “ánh mắt cười theo miệng cười” mà tôi nhận ra ngay khi Thơ bước nhanh tới choàng ôm Phước và tôi.
Giới thiệu người bạn đường mới, Thơ tâm tình cuối cùng Thơ cũng tìm được bến đỗ vững bền trong vòng tay đùm bọc chở che của một người đàn ông rất mực yêu thương nàng, người đàn ông mà Thơ hằng mong ước từ lâu… Mừng cho Thơ biết bao! Coi như nàng đã được tạo hóa đền bù những tháng năm dài gánh chịu quá nhiều gian khổ… Phép mầu của tình yêu có khác! Love is many splendoured things!
Người bạn cũ ở Xứ Tuyết rất nặng tình với tôi, Đào Khánh Thọ -người bạn lúc nào cũng sẵn sàng phục vụ, chẳng những bạn mình mà luôn cả bạn của bạn mình- dù bận bịu chăm sóc chị Thọ bị tai nạn gẫy chân phải băng bột, di chuyển rất khó khăn, vẫn chở chị đến đưa chúng tôi đi viếng tượng Đức Mẹ ở Long Beach.
ĐKT vốn là cựu đồng môn với tôi ở Lycée Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), cựu đồng nghiệp, cựu Trưởng Khu Học Chánh như tôi, nhưng ở Vùng IV…Chúng tôi có quá nhiều kỷ niệm vui buồn lẫn lộn, khi còn bên nhà cũng như lúc qua xứ người, nhứt là giai đoạn cùng làm việc trong Ban Chấp Hành Hội Ái Hữu Nguyễn Đình Chiểu-Lê Ngọc Hân Canada. Sau đó chúng tôi vẫn duy trì liên lạc chặt chẽ khi Thọ chủ trương Đặc San Trung Học Tống Phước Hiệp (Vĩnh Long)…Hai chúng tôi coi nhau như người trong gia đình. Thọ đã thường xuyên an ủi, trợ lực khi tôi phải đương đầu với những khó khăn, trở lực khiến tôi vô cùng bực tức, nản chí trong thời gian hai đứa phục vụ anh chị em NĐC-LNH. Là một phật tử thuần thành nhưng Thọ không cuồng tín nên chúng tôi vẫn có thể thân thiện trao đổi quan điểm về đạo và đời…

Một bất ngờ thích thú: Khánh, cựu môn sinh trường Bồ Đề (Bình Dương), dù chỉ sinh hoạt với tôi một niên học thôi, năm 1967, đã bỏ nhiều công sức dò tìm tông tích tôi trên Net, sốt sắng gửi điện thư, gọi điện thoại chào mừng, vấn an “thầy cũ” trước khi tôi rời Montréal. Suốt thời gian tôi qua viếng Cali, Khánh thường xuyên điện thoại thăm hỏi, giúp tôi bắt liên lạc với hai cựu đồng nghiệp ở Bồ Đề: Nguyễn Kim Long (Pháp văn) và Phạm Đình Lân (Sử Địa).
Nghĩ tới chuyện các cựu môn sinh, cựu đồng nghiệp trường Phục Hưng không “mặn” lắm với chuyện nối vòng tay lớn, tôi cảm thấy đôi chút xót xa. Chờ xem lần họp mặt với trường Trịnh Hoài Đức (Bình Dương), dự trù tổ chức vào tuần cuối tôi còn ở Cali diễn tiến ra sao…
Trong khi chờ đợi, tôi vẫn phò nhị tẩu “cơ bản thao diễn” đều đặn trên đường phố Garden Grove rợp nắng ban mai, để rồi về đêm một mình lăn trở trên chiếc giường xếp, lắng nghe “tiếng còi trong sương đêm” từ sofa bên phải nỉ non tâm sự hòa quyện với tiếng “kèn trompette khóc dài trong sương sớm” từ căn phòng tí hon bên trái nức nở tâm tình, đồng trổi một hợp tấu khúc khá “mê ly”, thừa khả năng đưa tôi vào cõi mộng mơ khi bình minh vừa chập chững lố dạng với tiếng hát mơ xa lững lờ tan loãng trong sương mai:
đứng ở ngoài đầu rừng
đứng ở đầu con sông
nhớ về con đường cũ
mênh mông
mênh mông
***
P
hát chuyển lời anh NTLiêm mời tôi đến họp mặt với một số anh em đồng nghiệp tại trụ sở Lăng Ông Lê Văn Duyệt Foundation. Cũng là trụ sở của Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai-Cửu Long. Trang trí bên trong rất uy nghiêm, phản ảnh trung thực nơi thờ phượng Đức Tả Quân tại Bà Chiểu (Gia Định). Đặc biệt, trong Hội Trường có bàn thờ Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương. Tôi đứng nghiêm cúi đầu chào di ảnh của cố Tổng Thống, nghe trong lòng dấy lên niềm thương cảm vô biên…
Sau đó anh em kéo nhau tới một buffet tiếp tục hàn huyên. Trong câu chuyện trao đổi, tôi giải tỏa ngộ nhận về GS Nguyễn Văn Kiết, cựu Tổng Trưởng Giáo Dục trong cái gọi là Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam của cái gọi là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam trước đây:
Một nữ và một nam đồng nghiệp, gốc Đức Hòa (Hậu Nghĩa) kể lại có nghe lời phao đồn nhằm gỡ tội cho ông GS -cũng dân Đức Hòa, một người đã thừa hưởng quá nhiều bổng lộc, đặc quyền của VNCH mà vong ân bội nghĩa chạy theo VC sau biến cố Tết Mậu Thân 1968- rằng ông ấy không “chủ động” theo MTDTGPMN vào mật khu, sau khi bọn chúng thất bại trong chiến dịch “Tổng Công Kích-Tổng Nổi Dậy”: Ông đang dạo mát trước nhà, đột nhiên bị một cựu môn sinh tới “bắt cóc”(!?), thúc ép ông “chém vè” theo chúng!
Ô hô! Ô hô! Y như luận điệu gần đây ngụy biện cho Sư Cộng Thích Đôn Hậu bị Việt Cộng “bắt cóc, cưỡng bức” theo chúng ra…Hà Nội, sau vụ bọn chúng thảm sát hàng ngàn đồng bào Huế, năm 1968!
-Thưa quí anh chị! Tôi biết rõ GS Nguyễn Văn Kiết đã có khuynh hướng thiên cộng từ lúc tôi ở trọ nhà ông theo học trường Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho). Ông “mê” và sùng bái Tố Hữu từ khuya rồi quí vị ạ! Tội là tội cho các cựu môn sinh của ông luôn nêu cao truyền thống “tôn sư trọng đạo”, đã hết lòng ngăn cản thừa phát lại thi hành án lệnh của Tòa tịch biên gia sản khi đương sự theo VC. Để rồi lúc ông “vinh qui áo cán bộ-nón cối ” trở về ông chẳng động một lóng tay cứu nạn cho họ mà còn cao giọng kết án họ là…cực kỳ phản động! Còn nhiều thứ khác chứng tỏ lập trường dứt khoát ủng hộ CS mà tôi không muốn nêu ra vì ông đã vĩnh viễn xuôi tay…“Nghĩa tử là nghĩa tận”, như cổ nhân thường khuyên bảo…
***
C
uối cùng, Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Trung Học Trịnh Hoài Đức cũng chính thức mời tôi -với tư cách là cựu giáo sư và cựu hiệu trưởng- đến họp mặt tại Bistro Đà Lạt. Là cựu học sinh khóa I của trường, Phát cùng đi với tôi tới điểm hẹn.
(Trước đó, MyKoVĩnhAn, cựu nữ sinh THĐ gửi điện thư nhắc nhở tôi: “Thầy nhớ là thương "tụi Phục Hưng" ít hơn "tụi em ở Trịnh Hoài Đức" nha thầy!”. Tôi thấy tức cười: em nào biết tôi muốn “thương” Phục Hưng hơn THĐ cũng đâu được, vì ba lần toan tính nối vòng tay lớn PH đều không thành!)
Tới nơi tôi hơi ngạc nhiên thấy mọi người đứng lố nhố ngoài cửa nhà hàng chứ không vào trong. Nghĩ bụng chắc mọi người chờ tôi đến để cùng vào. Nào ngờ nhà hàng…đóng cửa! Có thể đã dẹp tiệm mà chưa kịp hạ bảng hiệu cũng nên! Không hiểu sao Ban Tổ Chức không điện thoại đặc tiệc trước nhỉ? Hơi lạ đấy!
Hội Trưởng Nguyễn Văn Diệp và Hội Phó Từ Minh Tâm bèn tùy cơ ứng biến “giải tỏa bế tắc”, mời tất cả qua Âu Lạc, tiệm cơm chay “de luxe” kế cận, do “ Thượng Sư” Thanh Hải kinh doanh, cho đỡ phải xê dịch, “vừa đánh (chén) vừa đàm (tiếu)”! Quả thật tôi có căn duyên tu…chay đúng điệu hơn là tu…chai dỏm! Trước mặt mọi thực khách: hàng hàng lớp lớp ly to tổ bố tràn đầy nước…lạnh! “Nước hạnh phúc” có chất men làm sao có chỗ đứng trong quán cơm chay nhìn đâu cũng chỉ thấy toàn chai nước…suối!
Tôi không nhớ hết các cựu môn sinh, ngoại trừ em Nguyễn Văn Tiếp (đã từng nghe “thầy hiệu trưởng Lộc du học bên Tây về, ngồi trong văn phòng ngẫu hứng ca Vọng cổ”!)
Về phía đồng nghiệp, tôi được gặp lại lần thứ hai Đoàn Văn VượngPhó Đức Long (nhưng thiếu Nguyễn Thanh Liêm và Nguyễn Trí Lục), tái ngộ với anh chị Võ Văn Minh-Nguyễn Thị Cam, sau 41 năm bặt tin (mà tôi còn nhìn ra được), với Đinh Đức Vượng (mà tôi không còn nhìn ra được nữa, sau lần gặp cuối cùng, ngày 30.4.75, trong khuông viên trường Gia Long)…
Một bữa cơm chay tịnh nhưng câu chuyện trao đổi suốt buổi hội ngộ rất ư là mặn nồng! Không khí đại gia đình vẫn còn bao trùm sư đệ THĐ! Tình nghĩa thầy trò vẫn còn sâu đậm ở những thế hệ học sinh được giáo dục trước 1975, một nền giáo dục nhân bản, khai phóng, dân tộc, tự do và…miễn phí!
***
Đ
ón NSĐông từ Virginia xuống, NLThọ ghé rước tôi đi họp mặt với Ban Chấp Hành Gia Đình Hậu Nghĩa Hải Ngoại: chiến hữu Đông là một trong những Mạnh Thường Quân và Thọ là một thành viên BCH bên cạnh quí chiến hữu Nguyễn Thành Toán, Đỗ Bảy, Bùi Văn Ngô, Vũ Hữu Trường, Mai Thế Nghĩa. Tất cả đã từng phục vụ tại Tiểu Khu Hậu Nghĩa, Sư đoàn 25 BB, hoặc các đơn vị bạn hoạt động trong phạm vi lãnh thổ Tỉnh Hậu Nghĩa. Cá nhân tôi cũng được xem như có liên hệ với Hậu Nghĩa vì Sở Học Chánh Hậu Nghĩa là nơi tôi thường đến sinh hoạt nhiều nhất so với các Sở Học Chánh khác thuộc Khu III Học Chánh.
Thọ quí tôi đến độ cởi chiếc áo trận rằn ri khoát ngoài (Jacquette) tặng tôi. Và Đông cũng mến tôi đến độ đích thân mang chiếc mũ lưỡi trai mua từ Normandie -nơi duy nhất có bán loại mũ đặc biệt mà Tướng Nhẩy Dù Bigeard thường sử dụng- chụp lên đầu tôi!
Dịp nầy, BCH tặng tôi quyển Đặc San Hậu Nghĩa, Xuân Tân Mão 2011. Trang bìa trình bày Quốc kỳ VNCH rạng rỡ tung bay trước Tòa Hành Chánh Tỉnh, với ảnh cổng Chùa Giác Phước, cổng Thánh Thất Cao Đài và cổng Họ Đạo Tha La gợi nhớ vô số kỷ niệm khó phôi pha theo ngày tháng cho những ai đã từng sinh sống nơi biết bao quân dân các chính VNCH đã đổ xương máu bảo vệ an ninh cho đồng bào luôn bị CS khuấy nhiễu, sát hại dã man, tàn bạo…
Mở đầu Đặc San, bốn trang dày đặc tên tuổi những quân cán chính đã vĩnh viễn nằm xuống trên vùng đất không lúc nào ngưng giao tranh, trang trọng “Tưởng Niệm Tử Sĩ Quân Cán Chính VNCH Đã Hy Sinh cho Tỉnh Hậu Nghĩa”. Hai trong bốn trang nầy liệt kê danh sách các chiến hữu bị VC “bắn bỏ” ngày 30.4.75. những chiến hữu chiến đấu tới viên đạn cuối cùng để rồi, nếu còn sống sót, đều bị địch quân tàn sát…Buổi họp hôm ấy, các anh lượt duyệt kết quả cứu trợ Thương Phế Binh VNCH tại Hậu Nghĩa. Đây là Hội Ái Hữu thứ hai mà tôi được biết có chương trình và kế hoạch trợ giúp cụ thể và trực tiếp TPB tại địa phương. Hội kia là Hội Ái Hữu Biên Hòa…
Chạnh nhớ lần tôi đến Hậu Nghĩa sinh hoạt với Sở Học Chánh, ngày 20.4.1972, định ghé qua Tòa Hành Chánh Tỉnh chào Đại Tá Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Thành thì bàng hoàng nghe Chánh Sở Đào Công Nghiệp báo tin Đại Tá vừa tử trận…
Tôi cúi đầu thinh lặng nghe tiếng gió rít bên song tung bụi đường xoáy thành con trốt, nghe chừng như… Hồn tử sĩ gió ù ù thổi…năm nào trong trận chiến Tết Mậu Thân, những oan hồn vất vưởng trong chuỗi ngày u uất cuối tháng Tư 1975, với tiếng hát bi thiết xa xa vọng lại:
Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này!
Bây giờ anh ở đâu, bây giờ anh ở đâu?
Còn trên đời này đang xông pha đèo cao dốc thẩm hay đã về bên kia, phương trời miên viễn chiêm bao.
Trên đầu anh cái nón sắt ngày nào ấp ủ mộng mơ của anh, mộng mơ của một con người.
Hoạt động của anh em Hậu Nghĩa Hải Ngoại quả thật khiến tôi vô cùng khâm phục. Nhứt là nghĩa cử ân cần chăm sóc, giúp đỡ anh em TPB và gia đình cô nhi tử sĩ…
Tiếng hát cũng như giọng đọc diễn tả “vượt không gian và thời gian” của danh ca Thái Thanh lại vang lộng trong đầu tôi:
Trong cái nón sắt của anh mặt trời vẫn còn đó ban ngày và ban đêm, mặt trăng hoặc muôn muôn triệu triệu vì sao vẫn còn đó, tất cả vẫn còn đó vẫn còn đó.
Nhưng anh, bây giờ anh ở đâu? Con ễnh ương vẫn còn gọi tên anh trong mưa dầm, tên anh nghe như tiếng thở dài của lòng đất mẹ.
Dạo tháng Ba, tên anh lẫn trong tiếng sấm đầu mùa mưa nghe như tiếng gầm phẫn nộ đến từ cuối trời.
Hỡi người chiến sĩ đã để lại cái nón sắt trên bờ lau sậy này!
Anh là ai? Anh là ai? Anh là ai?
Hỡi ôi!
Ba chục Tết tơi bời xương máu
Triệu oan hồn lảo đảo đồi nương…

Thương ôi! Vì ai nên nỗi… “Tang thương đến cả hoa kia cỏ nầy” !***
N
gữ mang số sách ấn hành giúp tôi -đợt I, 50 cuốn cho mỗi tập truyện- để tôi kịp tặng thân hữu tại chỗ trước khi rời Cali. Sẵn dịp “rước” bộ ba Phước-Lộc-Túy lên Anaheim dùng bữa cơm gia đình.
Ngữ ở trong khu phải nói là “kính cổng cao tường”, an toàn tối đa. Muốn tới nhà, Ngữ phải dùng remote control mở ba hàng cửa sắt! Nếu tự mình lái xe đưa nhị tẩu đến đây chắc chắn tôi sẽ thành Lê Tấn…Lạc trong mê cung với hàng hàng lớp lớp cổng sắt lù lù ngăn chặn!
Nhìn bên ngoài, dáng dấp ngôi nhà đã hết sức đặc biệt. Nhưng vào trong mới thấy hết được công sức đã đầu tư để trang hoàng nội thất: lộng lẫy, rực rỡ… nếu muốn nói là “hoành tráng”! Y như một Bảo Tàng Viện Nghệ Thuật, với rất nhiều thứ có tính chất sưu tầm (collection). Đặc biệt nơi thờ phượng trông như một mini giáo đường! Toàn những đồ cổ có giá trị như di vật thánh thiện…
Khu vườn phía sau nhà cũng được sắp xếp, trang trí rất bắt mắt. Bảo trì “bảo tàng viện” bên trong, chăm sóc vườn tượt bên ngoài, chắc Hương, vợ Ngữ không còn bao nhiêu thì giờ nghỉ ngơi ăn uống!
Ấy thế mà vợ chồng còn phải thay nhau trông coi một cơ sở thương mại tự lập. Ngoài ra hai đứa còn bỏ rất nhiều thì giờ làm việc thiện nguyện! Ấy là chưa nói tới chuyện bếp núc mà Hương cũng thuộc hàng cordon bleu!
Hương rất khéo tay, không những trong chuyện nấu ăn (Hương nấu rất đạt và rất nhanh) mà còn trong chuyện thủ công. Hình như không lúc nào Hương “ở không”, tay chân và đầu óc lúc nào cũng hoạt động. Trong lúc Ngữ rất nhiệt thành bỏ công, bỏ của ra in kinh sách và tài liệu huấn đức miễn phí cho các giáo xứ thì rảnh tay đôi chút là Hương hỗ trợ cho chồng, bỏ công sức làm hàng trăm, hàng nghìn chuỗi Mân Côi, tặng cho các nhà thờ và tín hữu. Thắng, em của Hương cũng bỏ công “chùa” design sách vở do Ngữ nhận in giúp các hội đoàn và thân hữu…
Bữa ăn rất vui vẻ, hợp khẩu vị. Món bò kho Hương nấu ngon tuyệt.
Lúc tạm biệt, Hương trao cho tôi 200 xâu chuỗi mang về Montréal cho Dòng Phan Sinh Tại Thế và các đoàn thể trong giáo xứ.
Một đôi vợ chồng lưu lại trong tôi nhiều thương mến và cảm phục.
***
Đ
ang sắp xếp dần hành lý chuẩn bị vài hôm nữa về lại “căn nhà ngoại ô Rêu-Phong” thì bất ngờ NLThọ phôn:
-Thay đồ gấp đi! Tao tới bốc mầy đi một nơi bảo đảm mầy sẽ khoái chí!
Vừa gác phôn đã nghe chuông cửa reo. Thì ra Thọ tới đậu xe trước nhà rồi mới gọi điện thoại di động! Gấp dữ!
-Đi đâu vậy Thọ?
-Lên xe lẹ đi, tới nơi mầy sẽ biết! Ngạc nhiên thích thú chứ không ngạc nhiên khó chịu đâu mà mầy lo sợ!
Nửa tiếng sau, Thọ bấm chuông một ngôi nhà trông có vẻ “bề thế”, quay mặt về hướng bờ biển, gió thoáng mát dễ chịu...
-Giới thiệu mầy: anh Mai Thanh Truyết, gia chủ! Còn ông “phi-lô” nầy là LTLộc đó Truyết!
-Tôi đọc rất nhiều bài viết của MTTruyết mà tới hôm nay mới được giáp mặt anh. Rất hân hạnh!
-Tôi cũng mới được đọc bài “Họa phúc khó lường” của anh, và cũng như anh, bữa nay mới “thấy mặt” anh. Mời vào! Mời vào!
Cảm tưởng đầu tiên của tôi là ông TS nầy rất bình dị và nồng nhiệt (chaleureux) với anh em…Không khách sáo, không kiểu cách, không kênh kiệu “ta đây”! Đúng là phong cách đặc thù của dân “Nam Kỳ Lục Tỉnh”! Quả nhiên! MTTuyết cũng dân Hậu Nghĩa như NLThọ…Tôi quả có duyên “khắn khít” với dân Hậu Nghĩa, dù -cũng như NS Đông và một số anh em đã phục vụ ở Hậu Nghĩa- tôi không phải gốc gác Hậu Nghĩa!
Thọ cặp nách chai rượu chát đỏ đem đặt trên bàn tiệc dọn phía sau nhà đã có hai “đồng nghiệp” red wine chờ sẵn! “Khí thế” dữ a! Ông TS của tôi coi bộ cũng thấm nhuần “triết lý” đông phương lắm đó: Vô tửu bất thành lễ! Chả bù với bữa cơm chay kèm nước lạnh mà các cựu môn sinh và cựu đồng nghiệp bất đắc dĩ “phải sao chịu vậy, chẳng vui trong lòng” cam tâm vui vẻ cạn chén ly bôi trong lần họp mặt Trịnh Hoài Đức vừa qua!
Quán rằng thịt cá ê hề…Gia chủ sành ăn nên tôm cua sò ốc bò “lễnh nghễnh” trên bàn ăn, quá hạp gu thực khách! Rượu đã ngon lại có bạn hiền, còn bonus hai đóa hoa hồng kiều diễm biết nói -hiền thê của gia chủ và một thiếu phụ Á lai Âu- cùng đối ẩm thì không cách chi khi “ra sân” (sau thời gian khá dài “thiếu dợt” với mùa chay tịnh cơm cá trà đá tại gia) tôi không say khướt, ngã ngựa tại chỗ, “siêu thoát” lúc nào không hay biết!
Sáng hôm sau, khi choàng tỉnh, tôi như người vừa tỉnh mộng, chưa rõ tại sao tôi không ngơi nghỉ trên chiếc giường xếp như thường lệ mà lại nằm trơ trên sofa!
Tôi nhớ lờ mờ -không rõ mộng hay thực- tôi té xuống vực sâu, chới với, quờ quạng đôi tay tuyệt vọng… Bỗng dưng nắm níu được một bàn tay…Nhưng rồi lại bàn tay cứu vớt ấy lại vuột khỏi bàn tay nắm của tôi…Tôi lại sờ soạng kiếm tìm cái phao cứu vớt đó trong cảnh tranh tối tranh sáng với hơi men nồng chưa hoàn toàn lắng động…Rồi bừng tỉnh hẳn, nhận ra tôi đang siết chặt tay…tôi, hụt hẫng:
Có gì vừa mất ở đâu đây
Lòng thấy mềm như rượu quá say
Hốt hoảng chàng tìm trong bóng tối
Bàn tay lại nắm phải bàn tay!
-Allô! Thọ đây Lộc. Mầy cầm phone tay ra sân trước nhà nghe tao kể chuyện đêm hôm qua ở nhà Truyết. Ngày mai Truyết đi xa, muốn gặp mầy lần nữa trước khi mầy về Montréal. Tao nói hơi khó vì tối hôm qua nó với tao phải “kè” mầy về, tao không dám kéo mầy đi nữa sợ mấy bà “quạt” tao chạy không kịp!

Thọ kể là Truyết “kết” tôi lắm, vì hai đứa xem ra rất “cùng băng tần” khi trao đổi quan điểm về nhiều vấn đề chính trị, xã hội, văn chương, lịch sử, triết học, v.v…Tâm đầu ý hiệp đến độ ba chai rượu đỏ không mấy chốc đã cạn láng! Thọ không dám tham gia hết mình, chỉ nhâm nhi chiếu lệ vì phải lái xe. Hai ẩm sĩ Truyết-Lộc tửu nhập nhạc xuất, cùng cất giọng hợp xướng, đủ loại ca khúc tây ta.
Cuối cùng hai bạn đã phải dìu tôi ra xe. Nhưng đã yên đâu. Xe vừa chuyển bánh là tôi nằng nặc đòi “vũ qua Bắc hải”! Truyết bảo Thọ nhấn ga vọt nhanh cho mau về tới nhà. Nhưng Thọ cảnh cáo sẽ không kịp vì tôi sắp…vũ trong xe tới nơi!
-Mầy biết không, tao phải de xe lại đậu trước nhà Truyết, tao một bên, nó một bên kè mầy tới mấy bụi bông kiểng cho mầy…vũ trên hoa lá! Mà mầy đâu còn sức tự lo chuyện “vũ” đó! Xong xuôi đâu đó, tao nói với Truyết rằng tao đâu ngờ thằng bạn hơn 40 năm mới được gặp lại đã cho tao có cơ hội ngàn năm một thuở cầm “vòi rồng” cho nó…tưới cây! Tao tin chắc rằng kỷ niệm độc nhứt vô song nầy không thể nào hai đứa quên nổi!
Quả thật bạn tôi hành sử với tôi hơn cả “huynh đệ như thủ túc”!
***
D
ù đang lu bu với chuyện dời nhà, Thứ vẫn tạm gác qua mọi vướng bận lái xe đến rước tôi rất sớm, ghé qua Coeur de Paris mua cà phê sữa và croissant mang đi tới khu Phước Lộc Thọ nhâm nhi, thương cảm ngắm nhìn người Việt xa xứ sinh hoạt trước mặt và bên trong thương xá.
(Là bạn đồng môn Jean-Jacques Rousseau với tôi, Thứ tốt nghiệp Thủ Khoa Khóa 15 VBQG Đà Lạt. Hè Đỏ Lửa 1972, là Trung đoàn phó kiêm Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn 9/Sư đoàn 5 BB, đang hành quân ở Lộc Ninh, Thứ bị thương nặng phải tản thương về Tổng Y viện Cộng Hòa).
-Mỗi lần về Santa Ana, cứ 5 giờ sáng là tao mua cà phê và một ổ bánh mì không đến đây ngồi nhìn đồng bào mình hẹn nhau tới đây tán gẫu chuyện đời. Thiên hạ trách họ nói chuyện trên trời dưới đất, không đâu ra đâu. Nhưng tao hiểu và thương họ hết sức. Anh em mình đó Lộc à! Đàng sau những tiếng cười đùa trông như vui vẻ, vô tích sự là những mảnh đời rách nát bị bức rời khỏi một quê hương tan tác, trôi dạt đến “vùng đất hứa” mà họ khó có thể hội nhập hoàn toàn. Không bỏ lại quê hương nhiều thảm kịch thì đa số cũng đang đối đầu với nhiều bi kịch trong cuộc sống thường nhựt trên đất tạm dung! Tao nói họ là anh em mình vì đa số đều đã khoác chiến y như tụi mình, đã đổ mồ hôi, nước mắt trên quê cha đất tổ, đã góp xương máu trên khắp chiến trường, đã hứng chịu biết bao tủi nhục, uất hận trong các trại khổ sai của bọn CSBV hung tàn, khát máu...
Tôi thoáng thấy khóe mắt bạn tôi ươn ướt…
Đại dương nọ từ đây đôi ngã
Tàn binh đao keo rã hồ tan
Quê hương anh tấm thân tàn
Xứ người em gót bàng hoàng ngẩn ngơ

Mắt tôi cay xè… “Chốn ấy quê hương…”. Nơi nầy:
Thân đất khách một mình xui nhớ
Hương đêm dần dần nở khúc thương
Cửu Long Hồng Thủy Giang Hương
Ba sông một mẹ đau thương ngút trời

Anh em tôi! Những anh em nạn nhân của bạo quyền phi nhân!
Ngự đó một lũ đần ăn máu
Hả hê thay cường bạo sát nhân
Quê hương còm cõi toàn dân
Trời chưa hé sáng đêm vần vũ sa
Bạn bè tôi! Những anh em cùng ở đảo được mệnh danh “cửa ngõ của Tự Do và Tình Người” với tôi 33 năm trước -do LM Đỗ Minh Trí (Gildo Dominici) đảm trách- giờ đây xiêu lạc hà phương? Có khi tôi không còn nhận diện được họ trong số anh em đang tụ họp tại khu Phước Lộc Thọ nầy hay ở những anh em bất hạnh vô gia cư (homeless) mà sĩ số càng lúc càng gia tăng, đang lang thang khắp nẻo đường tiểu bang California, cố sinh tồn với đồng tiền bố thí của người hảo tâm, động lòng trắc ẩn…
một cơn gió bụi tơi bời
bạn bè trăm đứa rã rời bốn phương
(galang) đảo nhỏ nam dương
tấp vô lây lất kiếm đường định cư
ăn cơm chen lấn mệt đừ
nằm queo ngóng đợi tháng dư năm dài
cali texas sydney
bon chen dựng lại tương lai mịt mùng
Cũng có thể sau cùng họ đã có gia cư vĩnh viễn ở nghĩa trang, hoặc đã thành cư dân dài hạn ở các nhà thương toàn khoa hay bệnh viện tâm lý! Những bạn bè, anh em…
giựt gân bức xúc lung tung
tai biến mạch não đứa khùng đứa điên
đứa may kiếm được nhiều tiền
ung thư ập tới xuôi miền âm u
Đất nước tôi phải chăng bị Tàu phù Cao Biền trù yếm như truyền thuyết rất phổ biến trong dân gian, nên không thể nào được hưởng thanh bình lâu dài cho ba tánh được an cư lạc nghiệp? Phải chăng lá bùa yếm của Tàu phù nầy vẫn còn linh nghiệm nên VN khó ngóc đầu lên nổi, khốn nạn dài dài? Và viễn ảnh đất nước tôi đang trên đà biến thành một quận của Trung Hoa Đỏ phải chăng là hệ lụy tất yếu, với bè lũ Mafia VN đỏ lúc nào cũng sẵn sàng cắt đất đai, dâng sông nước, hiến hải phận và các quần đảo cho Chệt bá quyền?
Đâu ân oán những hàng cường quốc
Đọa Việt Nam đầu cất chẳng lên
Nợ đâu ai mượn ta đền
Chung qui một lũ kênh kênh chia mồi
Trên đường về, Thứ mở nhạc...
Dân nước tôi, nòi giống hùng cường Lạc Long
Làm gái toàn là Trưng Vương
Làm trai rạng hồn Quang Trung
Tôi không còn có thể kềm giữ được nước mắt tuôn tràn…
-o-o-o-
C
hậm thế nào rồi cũng tới lúc phải giã biệt nhau.
Tôi thức sớm hơn mọi bận, gập chiếc giường xếp, lòng thấy nao nao. Biết còn cơ hội trở lại gây náo nhiệt trong khu phố đáng mến nầy với Túy và anh em hàng xóm khả ái, bạn bè thân thương chăng?

Hôm qua, từ giã Thứ, tôi chợt nhận ra -không như trước đây nơi tôi luôn muốn tới khi không thể trở về thăm quê nhà là Paris, vì có quá nhiều kỷ niệm khó phai mờ thời sinh viên- giờ đây Cali đang chiếm trọn trái tim tôi, vì nơi đây tôi nhìn thấy lại Sài Gòn trước khi “mất tên”, cảm thông với những mảnh đời tan nát theo quê hương tan tác…

Trong khi chờ đợi Ngữ tới đưa Phước, Túy và tôi ra phi trường, tôi thẫn thờ đếm bước trên hàng gạch đỏ phân cách Belfast thành con đường lưu thông hai chiều, chạnh nghĩ biết đâu đây chẳng là những bước cuối của mình trên lối đi khó quên nầy. Ở tuổi quá thất thập, thời gian góp mặt với đời chẳng còn được bao lâu, thường được tính từng ngày, nếu không muốn nói là từng giờ, từng phút! Vô thường…
thế rồi cuộc đời là
những cuộc tình chia xa
đi lạc vào những phía không đường về
Nắng đẹp vô song. Ngữ đảo xe một vòng cho tôi nhìn lại lần cuối khu phố tôi đã thương mến đặt tên “Lady Belfast”. Vẫn con đường với những lối đi quen…
con đường thảnh thơi nằm
nghe chuyện tình quanh năm
Sau hai lần Phước và tôi choàng ôm giã từ Túy, nắm níu bịn rịn, “bước đi nhưng chưa nỡ rời”, hình ảnh sau cùng theo tôi lên phi cơ là dáng dấp khuất dần của Túy khi chúng tôi bước lên cầu thang dốc ngược lên trời dẫn vào khu chờ đợi. Mờ dần…mờ dần…
Nghe đâu đây vang vang ca khúc trữ tình chia tay thuở nào…
Je pouvais t’imaginer toute seule abandonée
Sur le quai dans la cohue des au-revoirs”…
J’ai failli crier vers toi, j’ai failli courir vers toi
C’est à peine si j’ai pu me retenir…” (**)
Trong tiếng rít gầm của động cơ phản lực tung máy bay lên không trung, tôi nhận ra ngày rời Cali quả thật tôi đã… “để quên con tim” ở lại…chốn ấy anh em, ôi cảm tình!
Thôn trang Rêu-Phong, Xứ Tuyết, cuối hạ 2011
Lê Tấn Lộc
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Ghi chú: Thơ, văn, nhạc trong bài nầy được trích dẫn từ Chinh Phụ Ngâm, Lục Vân Tiên, cũng như vay mượn của các nhà thơ Nguyễn Bính, Kiệt Tấn, các nhạc sĩ Hoàng Trọng, Phạm Duy. Tranh vẽ mượn của Kiệt Tấn.(*) Thư cho Kiệt Tấn (LTL)
(**) J’entends siffler le train (Hedy West)















.