Friday, July 24, 2009

VỀ NHỮNG NGƯỜI BẠN...





Tản mạnVề những người bạn…Mấy tháng liền, bỗng dưng tôi trở chứng rơi về lại tâm trạng “bời rời”, chán chường đã khiến tôi gần như liệt tay không cầm nổi bút, cách đây 17 năm, lúc tôi còn viết bài bằng bút lông, cho đỡ chai mấy ngón tay. Lúc bấy giờ chẳng rõ vì sao, nhưng kết quả là tôi ngưng viết cũng đến hơn 10 năm…Phải chăng nhờ sắm máy điện toán -cách đây vài năm thôi, quá muộn màng- mà tôi viết trở lại được chăng? Có phần đúng. Nhưng tôi nghĩ đa phần là do tôi chứng kiến những điều quá “xốn mắt” ở quê nhà qua lần duy nhất quay về quê cha đất tổ 6 năm trước đây, sau 28 năm biệt xứ…
Rồi bỗng nhiên tôi lại mất cảm hứng, mất hăng say nữa! Tuổi tác? Sức khỏe? Hay còn nguyên do gì khác? Khủng hoảng niềm tin về mọi thứ, kể cả niềm tin vào chính mình…chăng?
Rồi đột nhiên hôm nay tôi lại ngồi vào máy bắt đầu gõ, gõ chưa có chủ đề nhưng cảm thấy có nhu cầu gõ! Một vài “biến cố” dồn dập đánh động tâm khảm tôi, kéo tôi ra khỏi trạng thái ù lì, dật-dờ-mê-muội (léthargique) nhất thời …
*
-Anh Lộc hả? Biết ai gọi anh không?
-Nghe giọng quen quen, nhưng sao hơi đớt đớt vậy?
-Quâng đây. Nguyễn Viết Quâng-Collège de Vĩnh Long…
-Hồ Trường An! Trời ơi! Sao bặt tăm hơn chục năm vậy? Lặn kỹ dữ!
-Anh ơi! Tôi bị tai biến mạch não…
-Trời đất! Hồi nào? Sao chẳng ai cho tôi hay hết vậy?
-Cách đây chừng sáu tháng. Tôi từ San Jose về nhà, đột nhiên ngã quị. May mà trở tay kịp, đưa vào bệnh viện cấp cứu. Nếu không…
-Bây giờ tình trạng bạn sao rồi?
-Tôi còn ngồi xe lăn nhưng có thể chống gậy đi chút đỉnh. Sắp tới tôi sẽ trở lại Trung Tâm Tái Thích Ứng (Centre de Réadaptation) luyện tập thêm đi đứng và “học lại” cách sử dụng máy điện toán, tạo cơ hội cho trí óc làm việc để trí nhớ được vãn hồi lần lần. Nhân tiện “tập lại” cách phát âm cho đỡ đớt đát…
-Bạn sẽ tiếp tục sáng tác?
-Phải. Anh biết không, tai nạn xảy ra khiến tôi quên tuốt luốt một số lớn sáng tác dở dang và bây giờ không cách chi tôi khôi phục chúng được nữa. Dù tình trạng sức khỏe chưa mấy khả quan, tôi cảm thấy cầm viết trở lại vẫn còn là nhu cầu cấp thiết đối với tôi…

HTA tiếp tục kể những gian truân, khốn đốn trong thời gian nằm điều trị. Bernard, “chồng” của bạn tôi bỏ phế mọi công việc ở thư viện, ngày đêm túc trực bên “vợ”, lo lắng đến độ bị stress, gây rối loạn đường tiêu hóa, phải nằm bệnh viện mấy tháng trời. Cả hai “vợ chồng” nằm liệt giường cùng lúc! Nghe bạn tâm sự, tôi động tâm đến thốn tim. Và mọi định kiến tiêu cực của tôi lâu nay về những người đồng tính luyến ái bỗng nhiên tan biến hết. Chưa chắc những cặp vợ chồng “hétéro” thường được coi như “bình thường” đối xử với nhau trọn tình trọn nghĩa hơn đôi bạn “homo” Bernard-An, thường bị dán nhãn “bất thường” nầy…

HTA là bạn cùng lớp với em tôi, Lê Tấn Kiệt (Kiệt Tấn). Cả hai đều định cư tại Pháp, KT ở Bagnolet, ngoại ô Paris, HTA, Troyes. Tuy là bạn thân từ thuở còn học trung học, những lúc sau nầy hai đứa ít khi liên lạc với nhau, nếu không muốn nói là mất hẳn mọi giao tiếp.
Tôi trên chúng hai lớp. HTA đương nhiên coi tôi như người anh. Và lúc còn chung trường HTA rất quí mến tôi. Sau nầy cũng thế. Nhắc về thuở ấy, có lần HTA viết:
“Anh lại có số đào hoa . Hồi học ở Cao Tiểu Vĩnh Long, biết bao nữ sinh lắm phen thổn thức con tim và say mê anh.(…) Anh (…) hát giọng chánh bằng một giọng trầm ấm và vang lộng.(…) Tôi mê giọng hát của anh Lê Tấn Lộc có một, nhưng tôi mê cái kiến thức triết học của anh tới mười. Tôi nghĩ anh có một tâm hồn nghệ sĩ, một đầu óc phóng khoáng, một kẻ chống lề lối cứng ngắc, chống những giáo điều khắc nghiệt khô khan, một anticonformiste(…)
Vào năm 1958, tôi có viết cuốn tiểu thuyết đầu tay mô tả một anh chàng đồng tính luyến ái mới vào tuổi hoa niên. Tôi có nhờ anh Lộc góp ý kiến, nhứt là ở chót đưa anh chàng sống lại cuộc đời bình thường như bao nhiêu đàn ông dị tính luyến ái khác. Anh Lộc sẵn sàng nhuận sắc dùm tôi trên mười chương, nhưng ở chương chót, ảnh lắc đầu (…)Tuy nói vậy, nhưng anh Lộc vẫn giúp tôi sửa chương chót. Quyển sách hoàn thành.
(…) Về sau, tôi được biết, khi còn ở trại cải tạo, anh Lê Tấn Lộc sáng tác nhạc.(…) Anh viết bút ký, phóng sự rất hay, óc quan sát tinh nhuệ. Anh còn viết truyện ngắn, giọng văn dí dỏm, ngay cả những cảnh khổ mà văn anh như những tia nắng reo cười”.

Nghĩ cũng lạ, HTA và tôi cũng khá nặng tình nghĩa. Vậy mà lại ít khi gặp được nhau, ngoại trừ lúc còn chung trường ở Vĩnh Long và lúc bạn tôi qua Mỹ Tho tiếp tục học trình ở trường Nguyễn Đình Chiểu, cùng trọ một nơi với KT. Lúc bấy giờ tôi đã lên trường Jean-Jacques Rousseau (Sàigòn) nhưng vẫn lái Vespa xuống thăm hai đứa.
Mãi 14 năm sau, tôi mới gặp lại HTA tại Bình Dương. Lúc bấy giờ HTA là Chuẩn úy Nguyễn Viết Quâng và tôi đảm nhiệm chức vụ Hiệu trưởng Trường Trung học Trịnh Hoài Đức. Chỉ gặp một lần duy nhứt trong một phiên họp tại Tiểu khu Bình Dương, năm 1970. Rồi bặt tăm nhau luôn…
Cho tới năm 1989, qua Paris tôi lại lỡ mất cơ hội họp mặt với HTA vì đêm ấy KT và tôi “quá chén lạc hoan” ngã ngựa dọc đường, không đến được điểm hẹn! Rồi 9 năm sau, HTA lại lỗi hẹn sang Canada ra mắt sách, trong khi các bạn đồng môn và tôi chuẩn bị sẵn sàng mọi thứ rất chu đáo. Lý do: HTA bị bọn bất lương xô té bị thương, cướp giựt xách tay, giấy tờ tùy thân, gồm passeport, vé máy bay; dĩ nhiên tiền bạc cũng mất trọn!
Sau đó, biết bao lần sang Paris mà không lần nào tôi có dịp giáp mặt bạn tôi. Để rồi…giờ đây được bạn tôi báo tin suýt vong mạng vì đứt gân máu! Tôi cũng đành tự an ủi là HTA vẫn may mắn chưa dứt nợ trần. Hy vọng hai đứa còn có cơ hội tay bắt mặt mừng nhau trước khi vĩnh viễn xuôi tay! Nhưng xem ra cũng rất vất vả. Chẳng những HTA đi đứng khó khăn mà khả năng đi đây đi đó của tôi giờ đây cũng rất hạn chế bởi đã bức khá xa tuổi “thất thập cổ lai hi”. Tôi nghĩ rằng bạn văn cũng như thân hữu khắp nơi, không ai có thể phủ nhận nhiệt tâm đóng góp công sức cho nền văn học hải ngoại, cũng như sự tận tình khuyến khích các “mầm non văn nghệ” hăng say viết lách của HTA.
Ước mong bạn tôi sớm bình phục, tiếp nối sự nghiệp văn chương của mình vốn đã rất phong phú và thành đạt từ lâu. Một người bạn lâu rồi không gặp, tái xuất hiện không báo trước, suýt chút đã hóa ra người thiên cổ!..
**-Quâng có biết Huỳnh Quang Nhựt mất rồi chưa?
-Trời Phật! Mất hồi nào vậy anh? Mà tại sao chết?
-Cũng chút năm rồi. Bệnh suy đường hô hấp (emphysème pulmonaire). Lâu nay Nhựt thường trăn trối với KT và tôi rằng tuy luôn cười giỡn với anh em, Nhựt vẫn có thể ra đi bất cứ lúc nào. Đi đâu Nhựt cũng mang theo một lô thuốc men và ôm kè kè bình dưỡng khí! Tôi gặp Nhựt lần cuối tại San Jose, năm 2005. Tội nghiệp, tuy tình cảnh khó khăn vậy mà Nhựt cũng ráng lái xe, có vợ theo kèm -dĩ nhiên!- từ Sacramento xuống gặp Nguyễn Đồng Danh -Danh “trại gà”- và tôi. Quâng biết đó, tụi nầy năm đứa Thứ-Danh-Lộc-Nhựt-Kiệt xưa kia hỗn danh “ngũ hổ” đại náo vũ trường và …tình trường! Bây giờ một con đã lìa bầy, mấy con còn lại cũng đã ít nhiều sứt càng gẫy gọng: Cánh tay Thứ xưa kia từng vung gươm thiêng, “giương cung bắn ra bốn phương trời để nói lên ý chí tang bồng hồ thỉ” -như bạn đã viết- tại vũ đình Trường Võ Bị Quốc Gia, nay đã gần như tê cứng vì thấp khớp, hậu quả của mười mấy năm ngồi tù CS. Nhưng tinh thần và lập trường quốc gia của Thứ luôn vững chắc, minh bạch, càng lúc càng bền vững, càng lúc càng rõ rệt, dứt khoát với CS. Danh, thoát chết trong gang tấc sau một cơn đau tim đột biến, giờ cũng ngất ngư con tàu đi nhưng chẳng bao giờ thèm chơi trò tâng bốc, xu nịnh các quan kách mệnh an nam ta “kiếm chút cháo”, rất thịnh hành trong đám việt kiều kéo nhau về VN “vô tư” ăn chơi phè phỡn. Kiệt thì Quâng đã quá rõ, vào ra bệnh viện tâm lý đều chi. Tôi thì, như Quâng biết, tưởng đã đi chuyến tàu suốt sau cơn giải phẫu tim cách đây hơn 14 năm…

Nói tới HTA, KT mà không nhắc Huỳnh Quang Nhựt là một thiếu sót đáng kể. Bởi lẽ bộ ba nầy thuở còn mài đủng quần trên băng ghế học đường đã nổi máu…văn nghệ! Hãy nghe HTA kể về người bạn vừa nằm xuống:
Hồi học ở Cao Tiểu Vĩnh Long, nó học trên tôi một lớp. Khi học Triết ở Sàigòn (và sau đó ở Yersin-Đà Lạt), nó làm thơ rất nhiều, tròm trèm 200 bài. Nó lấy bút hiệu là Nguyễn Triết Vũ. Triết là môn Triết nó đeo đuổi. Vũ là cô vũ nữ. Thuở đó, Nhựt say mê một cô vũ nữ nên thơ nó có hồn lắm. Càng lớn nó càng đẹp trai giống giống Tony Curtis. Thơ của nó được tôi và Kiệt Tấn đọc hoài hoài. Sau đó Nhựt học Dược Khoa với tôi. Nó được tốt nghiệp, lao vào ngành doanh thương, giàu sụ. Tôi học tới năm thứ hai thì trượt vỏ chuối, phải đi lính với số lương tiền lính tính liền
”.
Thố tử hồ bi, nói chi tới một trong năm con hổ quị ngã! Có điều Nhựt vĩnh viễn ra đi mà mãi nửa năm sau tình cờ chúng tôi mới được biết. Khi sống trên đất tạm dung, “cá thòi lòi” -hỗn danh của Nhựt, vì Nhựt bị bướu cổ, mắt lồi- thường mai danh ẩn tích. Có lẽ vì thế tang quyến mặc nhiên muốn bạn bè thân thương coi như bạn tôi “âm thầm qua đời, tội ác còn vương mang” chăng?

Khung trời thơ mộng xứ anh đào Đà Lạt đầy ắp kỷ niệm khó quên giữa Nhựt, Kiệt, Thứ, Trinh, HNBiên, Lưu, tôi…với Tú-nữ-bá-tước-chân-trần, nửa thế kỷ về trước, giờ đây mãi mãi vắng bóng hai cánh chim thân thương: Trinh, năm 1961, tức tửi gẫy cánh trong một phi vụ vào độ sức sống đang lên; Nhựt, năm 2008, ấm ức lìa đời vì thiếu dưỡng khí cần thiết cho hơi thở trợ lực chuyển máu luân lưu trong cơ thể, hụt hẫng, chao đảo rơi rụng xuống vực sâu đỉnh Lâm Biên…
***
Đ
ã nhắc tới Đà Lạt không thể không nghĩ tới hai khuôn mặt rất “văn(học)nghệ (thuật) của Viện Đại Học Đà Lạt thời xa xưa, cho tới nay vẫn còn đậm nét trong ký ức ngày càng hao gầy của tôi, “chàng” thư sinh năm nào còn ngơ ngơ ngáo ngáo rời Sàigòn lên chốn muôn thuở mù sương, với đồi non thung lủng chập chùng vây quanh thành phố, với rừng thông rì rào, với suối reo róc rách, với thác đổ cuồng nộ không ngưng nghỉ: Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Xuân Hoàng!

Hai mươi chín năm trước, ra trại tù “cải tạo”, tôi gặp lại Biên và Hoàng tại toà soạn báo Tin Sáng, nơi trú-ẩn-giả-dạng-qua-ải của một số lớn đồng-nghiệp-mất(nghề)-dạy(học) của tôi, để tránh bị tống đi “kinh tế mới”. Hai đứa bạn xưa ráo riết “ vận động” cho một tay có “lý lịch xấu” như tôi được chen chân vào tổ “thầy cò” (sửa lỗi bản vỗ). Tại đây, tôi giáp mặt chủ bút Hồ Ngọc Nhuận: Năm 1961, Nhuận cùng trung đội sinh viên khóa 14 SQTB Thủ Đức với tôi. Thuở ấy, hai chúng tôi cùng chung một giường hai tầng, thường tâm sự; chẳng có dấu hiệu nào cho tôi thấy HNN “thân cộng”. Trước đây tôi vẫn nghĩ Nhuận công giáo vì ở trong Phong trào Thanh-Sinh-Công (JEC). Cho nên khi Nhuận cải chính và xác nhận với tôi anh là đảng viên cộng sản từ lâu, chứ không phải mới sau nầy, tôi…sững sờ giây lâu! Rõ ràng các bạn tôi và tôi quá “ngây ngô” về việc cài người của Việt Cộng!
Cũng tại đây tôi chạm mặt khá nhiều đồng nghiệp cũ, nhưng họ “bơ đi”, làm như không hề quen biết. Kể cà nhà-văn-nhớn từng dõng dạc tuyên ngôn: viết là… “thách-thức-thần-linh”, là …“đâm-nổ-mặt-trời” HPA! Cũng dễ hiểu thôi. Sợ vạ lây “liên hệ” với phần tử “phản động”!
Duy có Biên và Hoàng là ngang nhiên tiếp xúc và “giúp đỡ” tôi khi bị “lãnh đạo” gọi lên “làm việc”…Cho đến lúc tôi vượt trùng dương tìm đất sống, liên lạc với hai bạn tôi bị gián đoạn một thời gian dài…

Hai lần gặp lại NXHoàng tại Montréal, một lần ở Westminster, trước năm 2000, nhưng không lần nào tôi có dịp gặp riêng Hoàng. Bạn tôi luôn bận rộn và bị vây khổn! Tôi nghĩ Hoàng cũng tiếc tiếc như tôi, vì thuở còn là “đồng nghiệp-đồng-nghề-đồng-ngành”, cùng với Tạ Ký, Tôn Thất Trung Nghĩa (về sau có Kiệt Tấn gia nhập), chúng tôi rất thân thiết. Có lúc tôi nghĩ biết đâu vì tôi không thuộc loại “đồng-nghiệp-làng-văn-chuyên-nghiệp” mà Hoàng không tiện giao du với tôi như xưa chăng? Có thể tôi nghĩ sai nên chưa vội kết luận nhân tình thế thái là…chuyện dài nhân dân tự vệ!
Cho đến lúc, nhân một bài viết về vài kỷ niệm vui buồn liên quan đến tiểu thuyết mới, do HNBiên -vừa từ VN sang định cư ở tiểu bang Utah- đánh máy giúp rồi chuyển cho NXH đăng trên Văn, tôi mới có dịp liên lạc trở lại với Hoàng. Lần đó Hoàng nói úp úp mở mở với tôi rằng HNBiên đau nặng mà không muốn cho bạn bè biết. Tôi điện thoại viễn liên cho Biên nhưng Biên cũng không muốn cho tôi biết bịnh trạng. Cũng lạ! Ngày xưa cùng trọ ở đường Phan Đình Phùng Đà Lạt, hai đứa thân thích như ruột thịt và chẳng có điều gì giấu nhau. Hay bạn tôi cũng ở trong tình trạng “không tiện giao du” với tôi, như NXH? Có thể tôi lại nghĩ sai nữa...

Rốt cuộc rồi tôi cũng biết được cả hai đứa bạn cùng lò Đại Học Sư Phạm đều có vấn đề sức khỏe khá trầm trọng, nhân dịp tôi sang San Jose năm 2005 thăm Danh “trại gà”, cũng vừa thoát hiểm sau cơn heart attack! Lần đó tôi không gặp Hoàng, đang lu bu “tẩn liệm” tờ Mercury News. Tình cờ, hết sức tình cờ, tôi gặp Biên nhờ bạn Nguyễn Đồng -cũng lò ĐHSP- cho số phone. Biên rời Utah mà tôi chẳng hề hay biết. Cả Hoàng cũng không rõ…

Biên lái V.U.S. đến đón tôi tới nhà riêng, dọc đường ghé hiệu bán bánh mì Pháp mua croissant au beurre, confiture, bánh mì baguette v.v…của Tây chính cống. Bạn tôi vẫn không thay đổi goût ưa điểm tâm “à la française” như thuở hay ghé La Pagode, đường Tự Do. Cũng có thể Biên nghĩ thằng bạn “parigo” xa xưa của mình muốn nhớ lại thời hai đứa chia tay ở Đà Lạt, tôi đi “Tây” bỏ Biên ở lại một mình trên gác trọ Phan Đình Phùng đầp ắp kỷ niệm buồn vui đều có nhau, cùng chia sẻ...Hoài niệm về “la comtesse-aux- pieds-nus” chỉ một đêm duy nhất ghé qua gác trọ cùng tôi nghe nhạc thính phòng, trong lúc Biên đi xem nữ danh cầm Supitra trình tấu piano, vẫn còn sống động trong tâm tư hai thằng giờ đây đã hom hem, lụ khụ nhưng chưa đến độ nghễnh ngãng!
Khó khăn lắm tôi mới nhìn ra HNB dưới lớp áo “cư sĩ” đạo Phật, râu chòm lất phất trông rất…“thiền sư”! Bạn tôi vẫn giữ nguyên vẹn sở thích ăn mặc khác thường thiên hạ…Thiếu chút tôi đã khoanh tay cúi đầu … “Bạch Thầy”!
Cách trang hoàng, bày biện nội thất của Biên gợi nhớ cách trang trí căn gác Phan Đình Phùng-Đà Lạt, 1959. Rất điệu nghệ, tinh túy! Cái mới lạ với tôi là giàn computers quá chuyên nghiệp trong phòng làm việc. Tôi nghĩ, trừ giờ ăn uống, tắm giặt, nghỉ ngơi, Biên ít khi rời giàn máy, tay luôn di động trên bàn phiếm. Dám ăn ngủ tại chỗ lắm! Biên chủ trương nhà xuất bản Trình Bày từ thuở còn ở VN và Web Tiền Vệ hiện nay, nên hầu như không lúc nào rỗi rảnh.
Vài năm trước Biên bị tai biến mạch não, rất may chỉ một phía trên mặt bị tê cứng, nhưng mặt mũi không bị “xiêu vẹo”! Lúc bấy giờ Biên phụ trách một tờ báo cho Đại học ở Utah. Sau “tai nạn”, Biên buồn tình dời nhà qua San Jose.
Câu chuyện trao đổi giữa hai thằng vẫn đậm tình như xưa. Nhưng hai đứa cố gắng né tránh các vấn đề liên quan tới chính trị và văn học. Cho khỏi sanh giặc! Về điểm nầy, tôi cũng e ngại như đã e ngại với NXH (và sau nầy với cả KT, em tôi): Tôi tự cảm thấy mình không thuộc giới cầm bút chuyên nghiệp, không muốn các bạn mình “lúng túng” trong giao tiếp với thế giới làng văn …vì mình!
Thế mà cũng không tránh khỏi buồn lòng nhau. Một vài lần chuyển tiếp bài vở của thân hữu cho Biên “coi chơi” (những bài vạch trần những chuyện quá lố ở quê nhà và trong hàng ngũ Việt kiều “bưng bô” cho cán bộ CS), bạn tôi “lưu ý” tôi nên ngưng gửi. Từ đó, chẳng những tôi ngưng gửi mà ngưng liên lạc luôn, tránh cho bạn tôi khó xử trí! Nhưng cho dù ai có nói xa gần gì về HNB thì…tôi khẳng định bạn tôi không thể nào là…cộng sản. Cho dù trước đây Biên thường hay đeo ảnh Che Guevara trước ngực, tôi vẫn cứ xem đó cũng chỉ là một hình thức lập dị, thách thức, chọc đời cho vui vậy thôi! Ngay từ lúc còn là sinh viên ĐHSP, Biên đã để lộ phong cách “khác thường” như thế rồi!

Với NXH cũng thế. Ngoài lãnh vực văn chương, Hoàng còn là một giáo sư triết có tầm vóc. Chắc chắn không thể là loại giáo sư “chết” lý như các “đấng”chuyên-viên-mị-dân Lý Chánh Trung và “ngài” cực kỳ đểu cáng Nguyễn Trọng Văn. Và cũng chẳng xỏ lá ba que như đám đồ tể Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân luôn trịch thượng chối leo lẻo đã tàn sát đồng bào hôm Tết Mậu Thân! Cho dù ít nhiều có liên hệ với gia đình “kách mạng”, tôi tin NXH không thể là loại lợi dụng thời cơ, theo đóm ăn tàn, trở mặt hại bạn để vinh thân phì gia…Hoàng cũng chẳng thể là “đặc công nằm vùng” như một số người ác ý chụp mũ.
Mấy lúc sau nầy, tôi vô cùng xót xa đọc điện thư của NXH: Toàn những lời trối trăn, chán chường. Tôi gạn hỏi nguyên do, Hoàng chỉ võn vẹn cho biết “NXH chỉ còn chờ ra đi thôi!”. Cho tới nay, tôi chỉ được KT cho biết lờ mờ là Hoàng mổ mắt gặp problème về thị giác…Chẳng lẽ NXH bô trai, cường tráng (viril) trước đây -như Casanova tái sinh- giờ đã trở thành Lục Vân Tiên hay Moshe Dayan? Tai hại bạc triệu!..
Mới đây, đọc những giòng chữ nầy, tôi càng chua xót, nhưng cùng lúc, rất nghịch lý, tôi cảm thấy vui vui vì nghĩ là bạn tôi chưa thể lìa đời…
Nhưng người làm tôi‘shock’ khi gặp lại là nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng của tạp chí Văn ở San Jose. Anh vẫn duyên dáng nhưng tôi không nhận ra anh vì mái tóc anh bạc trắng, trắng như tuyết. Khi nhà văn Mai Thảo còn sinh thời, ông vẫn gọi nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng là Don Juan của Việt Nam. Don Juan nay đầu tóc bạc phơ, rất siêu thoát. Anh cho biết bị ngã ở Pháp, gẫy bốn cái ba sườn vì đêm trước nhậu múc mùa lệ thủy với nhà văn Kiệt Tấn, hôm sau đang đứng trong tiệm sách thì ngã cái rầm”. (Hoàng Dược Thảo, Tân Văn, số 23, tháng 6/2009).

“Cảm xúc còn, đam mê còn là sức sống còn vươn lên”, tôi đã viết như vậy trong một lần toan tính…tự tử trong trại tù cải tạo. Với NXH, tôi muốn nhắn gửi: Còn uống được rượu, còn thích thú uống, uống còn thấy “đã”, cho dù có ngã ngựa gẫy vài cái ba sườn (chuyện nhỏ!) cũng vẫn còn có thể ngồi dậy, đứng lên cười khanh khách: Anh chưa chết đâu em!
****
Cũng trong chuyến thăm thú bạn bè nầy, tôi dọ hỏi khắp nơi để tìm gặp Nguyễn Đình Toàn mà tôi rất nôn nóng muốn choàng ôm sau 30 năm mất dấu. Vì tôi nghe rất nhiều chuyện về bạn tôi nhiều lần vào tù ra khám CS cùng với Duy Trác, bạn đồng tù, đồng nhà giam với tôi tại trại cải tạo Hàm Tân Z30D …
Ngày 2 tháng 5/1975, Toàn và nhà văn “đâm nổ mặt trời” ghé “vấn an” tôi, sau khi bị “kách mệnh” trục xuất khỏi nhà mình trong Làng Báo Chí, do VNCH cấp. Lúc bấy giờ tôi cười mỉa, “chêm” hai nhà văn nhớn:
-Mới đây, khi Sàigòn chưa lọt vào tay VC, hai bạn theo đoàn biểu tình do Hồ Ngọc Nhuận xách động xuống đường làm ký giả xách bị chống gậy đi ăn mày. Bây giờ thì, nhờ kách mệnh “rải fóng” hai bạn mới thực sự “tròn mộng ước”, dắt díu nhau chống gậy xách bị ngửa tay kêu xin ông đi qua bà đi lại…Thế nhưng, vượt thoát địa ngục sang được miền đất tự do, tuy đau lòng nghe tin Toàn bị CS bắt đi bắt lại, hành hạ, khủng bố chí cốt, lòng tôi nhẹ nhỏm nhận thấy bạn tôi sớm thức tỉnh trong khi anh bạn kiên-trì-thách-thức-thần-linh kia thì…chưa thấy có dấu hiệu nào rõ nét cho tôi được an lòng đôi chút “người” đã thấm đòn “ma giáo” mập mờ đánh lận con đen của nhóm tự nhận là thành phần thứ ba -danh từ bình dân gọi là thành phần “chàng hảng”, cho tới nay vẫn chưa chịu nhận ra mình chỉ…“ăn ké” theo MTGPMN cầm c… chó đái cho CSBVthôi!

Gặp nhau nơi quán cà phê trong khu Sàigòn Nhỏ, tôi nhận thấy, không như Hoàng và Biên, dáng dấp bên ngoài của Toàn và người phối ngẫu không thay đổi nhiều. Tôi hơi bỡ ngỡ cảm thấy sự vồn vã của tôi hình như khiến bạn tôi không được thoải mái lắm. Và tự thấy mình vô duyên.
Có lẽ -tôi lại suy diễn- bạn tôi “không tiện” giao du với người bạn cũ không có sau lưng “quá trình tranh đấu” hay “sự nghiệp văn chương” như mình chăng? Một lần nữa, tôi lại nghĩ rằng biết đâu tôi chẳng nghĩ sai…
*****
B
ạn bè cũ ở Sàigòn ngày xưa nay chẳng còn bao nhiêu, trên xứ người cũng như nơi quê nhà. Tôi tự nhủ phải cố gắng nén cơn buồn lòng để gìn giữ tối đa tình bạn. Nhưng…sức người có hạn, tôi chưa phải là thánh, bụi hồng trần vẫn còn vương mang. Mấy lần định sang Saint-Paul (Minnesota) thăm vợ chồng anh bạn nhạc sĩ thời danh họ C. -bạn thân với cố nhạc sĩ Phạm Đình Chương và cố thi sĩ Thanh Tâm Tuyền- vốn có mối thâm giao từ lâu với KT và tôi, trước 1975. Nhưng tôi chùn chân vì… nghe đâu bạn tôi có lần muốn hạ cờ vàng ba sọc đỏ, thượng cờ đỏ sao vàng để rước phường hát-chèo-hát-chống-hát-cổ-hát-họng gì gì đó từ Hà Nội sang, bị các hội đoàn kịch liệt phản đối! Giao dịch với nhà thơ nhớn chuyên viên sì-lát/sì-lát/sì lát, chặt câu thơ ra từng khúc/từng khúc/từng khúc, cũng được đi, dù trước đây bạn tôi coi tay nầy không ra gì, không đáng kể (quantités négligeables). Đằng nầy…
Ngoài ra, nghe đâu anh bạn nhạc sĩ của tôi còn hết lời ca tụng “bại” tướng “chạy” râu mép Nguyễn-Cao-Kỳ-Nhông và sẵn sàng suy tôn “người” làm lãnh tụ anh minh! (Cụ “chơi” thế nầy thì nhà cháu còn mong chi hoài cảm được chút hương xưa của thu vàng!). Đó là chưa kể chàng nhạc sĩ nhà ta nổi tiếng cực kỳ khó tính. Không khéo tôi dám mang đầu máu ra về lắm! Tội vạ gì! Đành chịu thua, bỏ số de thôi!
Chợt nhớ lời một bạn hiền: Chớ buồn phiền thiên hạ thay đổi. Mình cũng đổi thay mà. Tất cả đều Vô Thường! Thôi thì…
Cũng đành thôi cũng đã đành!
Nghĩ cho cùng, còn gặp lại được bạn cũ đã là quá may mắn và…ít nhiều cũng đã mát dạ lắm rồi. Vẫn hơn phải chạm mặt hằng ngày, ngoài ý muốn, với đám điếu đóm cán bộ Cổng(tư)Sản của thiên hạ! Thế nhưng, thật bất ngờ, một vài mối sơ giao (hay thâm giao mà tôi lạc mất hoài niệm, cũng chẳng thể nhớ hết) bỗng nhiên đem đến cho tôi nhiều ủi an ở tuổi già thất thế nơi xứ người… “Ấm lòng chiến sĩ” xiết bao!
Ngày tôi ra tù cải tạo…từng người tình bỏ ta đi như những giòng sông nhỏ…Những người tình mà tôi yên chí lớn, cả tin vào lời rên rỉ thê thiết là thiếu tôi họ sẽ…chết liền!!!
Đột nhiên, một buổi sáng đẹp trời, người bạn xa xưa chỉ một lần đối mặt nửa thế kỷ về trước tình cờ “tìm ra” được người bạn sinh viên năm xưa mà mình đã có duyên hội ngộ chớp nhoáng trong đêm thanh vắng, cùng lặng im nghe nhạc cổ điển Tây phương trên gác trọ Phan Đình Phùng (Đà Lạt), tuyệt nhiên không có mục ngày đó có em đi nhẹ (hay đi nặng) vào đời chi hết. Người sinh viên sau đó âm thầm ra đi biền biệt suốt…50 năm!
Nhưng rồi câu chuyện trên điện thoại viễn liên đã nối lại nhịp cầu tri âm giữa hai người bạn sơ giao, nay trở thành thâm giao. Thú thật, lúc nghe tiếng bạn cách xa những 3 múi giờ, tôi bàng hoàng ngớ ngẩn giây lâu…Không chờ mà gặp, không hẹn lại đến! Tuổi đời chồng chất xấp xỉ tôi, bạn tôi quả thực quá can đảm vượt 7000 cây số đến tận căn nhà ngoại ô “Thôn Trang Rêu Phong” tìm gặp người-bạn-cố-tri-chỉ-một-lần-gặp! Người tình thì…bỏ đi. Người bạn lại… ở lại, chí cốt tìm ta! Không ngạc-nhiên-thích-thú sao?


Hai mươi mốt ngày dìu chân bạn dạo khắp thôn trang, ôn kỷ niệm rất hiếm hoi nhưng khó quên thời sinh viên, chúng tôi bỗng nhiên như trở thành hai thiếu niên tung tăng đùa giỡn, nghịch ngợm chơi trò cúp cua trốn học! Chỉ tay về hướng một trũng sâu cỏ cây um tùm, ven sông, tôi ghẹo bạn:
-Nếu ngày trước, thay vì cùng bạn giam mình trên căn gác, nghiêm trang thưởng thức nhạc thính phòng, tôi hẹn Nữ-bá-tước-chân-trần ra Hồ Than Thở mà ven bờ có bụi rậm như thế nầy để trốn học (faire l’école buisonnière) thì chưa chắc giờ nầy mình còn là…bạn tốt với nhau đâu!
Bạn tôi cười ngất. Tôi cùng cười theo, tin rằng mình đã nói lên điều thực sự nghĩ ra.
Rồi khách và chủ lững thững quay về căn nhà ngoại ô khuất dạng sau rặng anh đào trổ bông hường đặc gật. Hình như tôi nghe bạn tôi thì thầm:
Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
Không có ai chờ, đưa đón tôi đâu!
Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
Tìm hoa rụng lạc loài trên vệ cỏ…
Hình hài, dáng dấp chúng tôi dĩ nhiên mang dấu vết tàn phai của thời gian, nhưng hình như tâm hồn thì không. Cổ nhân đã chẳng thừa nhận: Tim bao giờ có vết nhăn (Le coeur n’a point de rides) sao?
******
T
ưởng rằng không còn gì trong giao tiếp của tôi với tha nhân có thể gây ngạc nhiên cho tôi nữa. Nhưng mấy ai học được chữ ngờ: vô số giao tiếp xa xưa ở quê nhà mà tôi chẳng thể nào chờ đợi còn nhớ đến “ông đồ già kiêm lính yếu” lưu lạc trên đất khách nữa… Bỗng dưng, không báo trước, một điện thư đáp xuống mail-box của tôi:
“Em xin tự giới thiệu là học trò của thầy , môn triết tại trường Phục Hưng 73-74 , nhân đi dạo trên web tìm dấu tích trường xưa vô tình gặp được trang blog của thầy rất vui vì nhìn được hình ảnh của thầy sau hơn 30 năm .
Nếu được sự đồng ý của thầy, em xin phép được đăng những bài viết trong blog của thầy vào trang web của đại học khoa học Sài Gòn.
(…)Nhờ có 1 ký ức tương đối khá nên những lời nói về Paris của thầy trong trí tưởng tượng của một cậu học sinh trung học em đã được nhìn bằng hiện thực , chỉ tiếc rằng lúc đó rời bỏ tất cả ra đi với 2 bàn tay trắng và phải bắt đầu một cuộc đời không định hướng nên cảm xúc đó không có được lâu . Nên cũng hiểu thầy có nhiều kỷ niệm với Paris .Em cũng không nghĩ rằng sẽ liên lạc được với thầy , chỉ vì chiều chủ nhật buồn chui vào google gõ bâng quơ " trường Phục Hưng đường Lê ngô Cát " hy vọng có một ai đó tạo 1 website Phục Hưng , và tìm được blog cuả thầy cùng với hình ảnh nên mới mail thử xem . Em đã đăng bài
Lệ đá xanh và sửa lại hình cô gái khóc , gửi lại thầy xem cho vui , nhờ bài này chắc sẽ có nhiều người biết Nửa hồn thương đau
ra đời như thế nào…http://www.khoahocsaigon.com/lang-thang-do-day/lang-man-tho-van/van-suu-tam/le-da-xanh -Trần Đức Diên-”Quá may mắn còn có người nghĩ đến tôi, dù chẳng thể nào tôi hình dung nổi khuôn mặt hay dáng dấp môn sinh Diên trong hàng vạn cựu môn sinh thuở đó của tôi. Bạn bè thâm giao phần lớn phai nhạt ân tình, lắm khi còn lánh mặt. Thế hệ con em xưa kia, nào tôi dám nghĩ chúng còn nhớ tới mình. Thế mà…
Làm sao tránh khỏi bồi hồi, xúc động?

Chưa hết đâu! Lại một ngạc-nhiên-thích-thú nữa rơi vào hộp điện thư ông đồ già: một cựu môn sinh mách tôi vào website trường Trịnh Hoài Đức tìm lối… “Trở Về” chốn cũ Bình Dương ân sâu nghĩa nặng…do cựu môn sinh Thùy Vương đưa lên mạng. (Bài viết nầy sau đó được bán tuần san Việt Luận chọn đăng, số 2380, ngày thứ sáu 24.7.2009).
Lần nầy thì tôi nhớ “người xưa”, vì thời điểm đó tôi phải đương đầu với hiểm nguy xách động gây xáo trộn trong sinh hoạt học đường mà tác giả bài viết vô tình hay cố ý ít nhiều liên can tới.
Chuyện xảy ra vào năm 1971, lúc tôi sắp sửa rời trường Trịnh Hoài Đức nhận nhiệm vụ mới. Chúng tôi chuẩn bị một chương trình văn nghệ rất công phu và khá phong phú -mà Thùy Vương là giọng đơn ca chính trong trường ca Lửa Thiêng của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ- nhằm giới thiệu Trường trên đài Truyền Hình Sàigòn. Lúc bấy giờ chỉ có Trường Mạc Đỉnh Chi và Trường Trịnh Hoài Đức được chọn trình diễn trên màn ảnh nhỏ. Và trường tôi được ưu tiên khai pháo.
Ròng rã đôi ba tháng tập dượt, biết bao công sức… Mọi việc đang diễn tiến suông sẻ thì…đột nhiên có người rỉ tai tôi âm mưu lợi dụng cơ hội nầy để…ra ứng cử dân biểu! Và có một vận động ngầm thuyết phục Thùy Vương…rút lui. Lập tức, tôi cho họp Hiệu Đoàn với đầy đủ các thành viên trong Ban Văn Nghệ và long trọng tuyên bố với các em học sinh, nếu tôi ra tranh cử dân biểu các em có quyền khước từ coi tôi là thầy! Rồi đích thân tôi đến nhà ba má Thùy Vương xin phép cho em tham gia văn nghệ.
Tưởng đã yên. Nào ngờ, chiều hôm trước ngày lên đài Truyền Hình, em đại diện học sinh, không rõ do ai xúi giục, gần như “hiên ngang” nói thẳng với tôi ngày mai các học sinh không…lên Sàigòn! Không khí cực kỳ căng thẳng…Tôi không còn sự lựa chọn nào khác, ngoài việc xác định lập trường của một ông thầy trách nhiệm Hiệu Trưởng kiêm Hiệu Đoàn Trưởng:
-Các em nghe kỹ đây! Ngày mai, đúng 6 giờ sáng, xe đò do Ban Giám Đốc thuê bao sẽ đậu trước cổng trường. Các em suy nghĩ cho thật chính chắn đi, rồi tùy nghi quyết định lên hay không lên xe. Nhưng, tôi xác quyết với các em: cho dù ngày mai chỉ có một em hay chẳng có em nào lên xe, tôi cũng sẽ cho xe lên đường đúng 8 giờ. Bởi vì thành công hay thất bại trong chuyến đi nầy liên quan đến danh dự chung của tập thể Trịnh Hoài Đức. Và trách nhiệm nầy nằm trong tay của tất cả chúng ta…Sáng hôm ấy, Thùy Vương và tất cả thành viên trong Ban Văn Nghệ có mặt đông đủ!
Chuyện xảy ra đã quá lâu, bao nhiêu nước chảy qua cầu…Không ngờ 38 năm sau Thùy Vương còn “ray rức” nhắc lại:
“Gặp được thầy nơi đây, lòng chỉ mong nói lên lời tạ-lỗi sau những năm dài ray-rứt trong đời. Dù em vẫn biết, với tâm-hồn dung-dị thanh-thản cùng những trải-nghiệm nghiệt-ngã của đời sống chắc không có chỗ cho thầy nhớ chi đến cái chuyện nhỏ-nhặt, tầm-thường và tẻ-nhạt thế nầy. Có chăng, chắc thầy cũng đã bỏ qua, cũng đã tha-thứ từ lâu… Nhưng riêng em, giây-phút được nói với thầy, với các bạn, là lúc hạnh-phúc thật lòng… Trong nỗi mong chờ dường như vô-vọng, hun-hút, chơi-vơi; nhiều khi tưởng chừng phôi-phai, mờ-nhạt, nhưng nghe sao nó vẫn loi-nhoi ẩn-tiềm trong ký-ức làm con người khó nỗi an lòng. Cho nên, chuyến hành-trình nầy với em mang thêm giá-trị ngoạn-mục của một cuộc vượt-thoát, con tim đã được vui lại như thời bé dại...”Thùy Vương nhận định rất chính xác: Làm sao tôi còn để tâm oán trách những con em trong một tập thể mà từ lâu tôi đã xem như gia đình thứ hai của tôi!
Nhưng điều khiến tôi rạt rào thương cảm là Thùy Vương đã thấu hiểu tâm trạng của tôi khi cầm bút. Chưa bao giờ tôi nghĩ mình là cây bút chuyên nghiệp, có “triển vọng”, đến độ tất cả điệu bộ hằng ngày như ăn uống, bài tiết, hít thở, đi đứng, nằm ngồi, yêu đương, thù hằn, v.v…nhất nhất đều biểu lộ “ngụy tín” (mauvaise foi) “đóng kịch đạo mạo-esprit de sérieux” ta là nhà văn…nhớn, như anh hầu bàn rất ư “nghiêm chỉnh” đóng vai hầu bàn trong “Hữu thể và Hư vô” của Sartre! Nhân vật trở thành nhân cách!
Người ta đâu dễ đồng-hành trên cùng một vuông chiếu ấy, dù là vuông chiếu của nàng văn-chương. Có chăng, còn đứng chân trên đó, chỉ còn một nước là "đồng-đấu", "đồng-đá" với nhau thôi, để dành một chỗ đứng, để kiếm một chỗ ngồi, hay để bồi thêm chút lợi-nhuận. Nhưng thầy(…)thì không, nên(..)đã giã-từ, dứt bỏ, quay đi... Vẫy chào những người đã một thời "đồng..." đủ thứ, chỉ giữ mỗi nàng văn-chương vì cái nghiệp muôn-thủa của mình thôi”.Nếu được thêm một độc giả chia sẻ nỗi niềm của tôi -cây bút “tài tử”- như thế nầy thì thật vinh hạnh cho tôi biết bao!*******
T
ôi nhớ có lần một cây bút thân quen đã thố lộ chỉ viết khi trong tình trạng mất thăng bằng. Nếu thăng bằng thì anh không cần viết. Hiện giờ tôi cảm thấy nội tâm không an bình. Tuy không hứng khởi lắm, nhưng tôi cảm thấy có nhu cầu gõ trên bàn phiếm. Cho đỡ buồn, cho vui vậy mà!(chữ của Nguyễn Mộng Giác)
Và quả thật, tuy sắp đi tới nơi hết mọi ưu phiền, trải qua cũng lắm gian truân, nếm khá đủ các món ăn chơi trong chuyện-dài-nhân-dân-tự-vệ-thế-thái-nhân-tình, tôi vẫn thấy được đời ưu đãi…
Tôi thành thật nghĩ rằng chính tôi phải cảm ơn cựu môn sinh Thùy Vương đã cho tôi sống lại những giây phút khó quên qua bài viết Trở Về. Vào buổi xế chiều của cuộc đời, tôi muốn chia sẻ niềm vui với quí bạn đọc ít nhiều còn gìn giữ, trân quí vùng kỷ niệm xanh thời nền giáo dục nước ta còn tôn vinh những giá trị nhân bản, khai phóng, tự do…
Trước 1975, Trường Trịnh Hoài Đức nằm trong “vùng xôi đậu”. Sau 1975, “xôi” ngã theo chính sách bao tử trị, tràn đồng trấn áp “đậu”. Nhưng dần dần có dấu hiệu, tuy khiêm nhường nhưng rất khích lệ, cho thấy hạt “đậu” nhân bản, vốn được ấp ủ từ lâu trong truyền thống tôn sư trọng đạo, đã bắt đầu chuyển mình dưới lớp “xôi” (thịt) dầy cộm phủ che bấy lâu, nẫy mầm triển nở, sanh sôi …

Xin cho tôi kết thúc bài viết bằng những dòng chữ chan chứa Tình Người dưới đây để tạ ơn đời đã cho tôi niềm hân hoan sâu đậm trước khi vẫy tay giã từ cõi mộng:
Thưa thầy,
Đọc tâm-tình tha-thiết của thầy về những giá-trị tình-cảm và tinh-thần trong cuộc sống, em không khỏi hổ-thẹn và chạnh lòng... Cái giá-trị hôm nay lại có từ những phút lỗi-lầm ngày xa-xưa. Chính cái phút lầm-lỗi ấy đã mang thầy trò mình gặp nhau và gần nhau thế nầy sao? Em cảm thấy lạ-lùng vì cái cơ-duyên kỳ- cục đó.
Đúng là cuộc sống muôn trùng. Trong cái phúc vẫn ngầm có họa, thì ngược lại, trong họa vẫn ngầm có phúc đó phải chăng?
Đời trôi qua bao nghịch-cảnh, có khi thật trớ-trêu mà mình không lý-giải nổi. Bây giờ em nghe lòng đầy ấp niềm an-ủi vỗ-về, vượt quá những gì hằng mong đợi. Chỉ biết cảm ơn, cảm ơn tấm lòng bao-la rộng mở, thầy đã dành cho những đứa học trò trở về sau bao năm xa cách, tấm lòng của người cha đón đứa con trở về sau những ngày tháng hoang đàng. Em hạnh-phúc được ngồi vào bàn tiệc của cha, với áo mới, quần mới, niềm vui mới...
học trò cũ,
Vương
Thôn trang Rêu-Phong, hè 2009
Lê Tấn Lộc