Thursday, July 31, 2008

Từ Kỳ đà Kỳ cục sang Kỳ khôi tới Kỳ…nhông!




Nhân đọc một bài phóng sự

Từ Kỳ đà Kỳ cục sang Kỳ khôi tới Kỳ…nhông!

Mọi việc khởi từ một buổi sáng mát trời, có chút nắng le lói:
Một điện thư bất chợt đáp xuống mail-box của tôi với cái tít gồ ghề “Tôi về Việt Nam để biết rằng mình có một quê hương”! Tưởng đâu bảng tuyên ngôn “kiếu nước” của đám chí (sỉ) đỏ -chớ có nói lái- đao to búa nhớn hô hào về Việt Nam hùn hạp kiếm ăn, dưới chiêu bài dỏm “hoà hạp hoà rải rân tộc” đang ngo ngoe dựng cờ khởi nghĩa như “thành fần thứ ba tái bản”, dưới trướng của Ô-Trọc-Sư VÔ HẠNH hoàn tục, một Lỗ Trí Thâm tái sinh và còm-pa-nhi! Ngờ đâu lại là chuyện “pi-lót-thót” (pillow talk) -thì thầm bên gối chiếc- của chị đờn bà số 2 cũ, người vợ thứ 2 cũ của ông tướng cũng số 2 cũ của VNCH trước đây, ông tướng “Thích-Mắm-Tôm-tử-thủ-bố-láo”, tiên chạy làng, hậu quay về quì mọp Bắc Bộ Phủ xin tạ tội… đã bỏ lại hũ mắm tôm chưa kịp xơi, trong lúc vội vã bỏ chạy sau khi hô hào đồng bào “bám trụ” quê hương đến hơi thở cuối cùng!
Xem ra bà phó-tồng-ngồng cũng ghiền mùi mắm tôm dữ đa! Chả nhẽ phòng trà Văn(g) Nghệ (14 Lam Sơn, Phú Nhuận) dưới chế độ XHCN được xông hương…mắm tôm ư?


Thiên hạ đồn rằng -nhưng cũng có “cơ sở” lắm- bà “đệ nhị” mắc “chứng động cởn” (nymphomanie), ưa thích “quăng bắt” tình nhân thuở còn xuân sắc. Tới lứa tuổi trổ đồi mồi vẫn còn ham săn mồi, nên nàng mang hổn danh “phó tòng-Tống” -Ó đen Ó đỏ Ó biển gì đó- săn luôn cả Ó Phi-líp-pin, Ó đơ-dèm-cùi-bắp-giao-chỉ-bay-đêm!
Thiên hạ cũng đồn rằng -cũng có cơ sở đấy- bà chẳng có tú tài tú tiết tây ta chi cả, đỏ đen hà rầm, quyên tiền mần việc thiện bị thiên hạ lánh mặt từ chối, sợ bị quyên luôn thứ khác, vân vân và v.v…Nhưng đây là chuyện riêng -chuyện bí mật phòng the- của bà phó-phô-trương, đờn ông như tôi không tiện chỏ mũi vào, tránh rủi ro mùi mắm tôm bám vào quần áo, ngầy ngật khẩy đờn lạc điệu, thân bại danh liệt! Vả lại đờn ông con trai hành sử như thế chẳng hào hiệp chút nào. Dù rằng vụ thiên hạ đồn rằng nầy, tôi có tài liệu mang chữ ký của một số người cầm bút có tên tuổi, do các thân hữu chuyển cho tôi…
Xin cho tôi miễn đi sâu vào “chuyện dài nhân dân tự vệ” nầy, để chỉ tập trung vào ghi lại các góp ý của văn, thân hữu về chuyện nữ (la) sĩ về chiều Đặng Tuyết Mai đang chực chờ le lói…

Sau khi đọc bài viết vừa bản tin, vừa phóng sự, vừa phỏng vấn, tôi chuyển cho một số thân hữu và cho toà soạn các báo tôi đang cộng tác. Không phải đợi lâu, cả một trận mưa mail tràn ngập PC tôi. Ý kiến phản ứng mãnh liệt dồn dập. Một vài mail chỉ dẫn tôi vào một số website tham khảo nhiều tiết lộ rất ly kỳ về “đấng” ca sĩ cận kề “thất thập cổ lai hi”…Chắc chắn bài viết nầy của tôi sẽ sanh sau đẻ muộn: có lẽ vô số bài viết đã lên mặt báo hoặc được tung lên Net khi ngòi bút tôi chạy tới đây. Nhưng tôi không còn sự chọn lựa nào khác ngoài việc tiếp tục viết. Bởi lẽ tôi cảm thấy có nhu cầu chia sẻ niềm uất nghẹn của một số anh em chiến hữu năm xưa và bây giờ.
Lẽ ra tôi không nên “đụng” tới một người dẫu sao cũng đã có thời cùng chiến tuyến với mình, lại là người nữ phái nữa. Nhưng sức chịu đựng của con người trần tục không thể không có giới hạn. Tuy nhiên, tôi sẽ không đi sâu vào tình tiết bài viết của Quỳnh Lệ. Các phát biểu hổ lốn của bà Phó Kỳ sẽ được nhiều cây viết khác có tầm cỡ hơn tôi mổ xẻ, như Đào Nương, Nguyễn Đạt Thịnh, Văn Quang v.v…Trừ trường hợp không thể tránh tôi mới “chạm” tới vài việc quá lố của mỹ nhơn thôi. Kỳ dư, tôi muốn nhân cơ hội nầy tổng hợp vài trao đổi quan điểm giữa những anh em đã hết sức phẫn nộ trước những biểu lộ bất xứng của bà cựu Phó…

Trước đây, tôi có viết một bài mà không báo nào dám đăng vì sợ “bể nồi cơm”. Bài viết tựa đề Hát hỏng hụt hơi hỗn hễn hò hét, có đoạn tôi viết:
“ Anh thử nghĩ, nếu ở Việt Nam, cách đây 40 năm, lúc anh và tôi trên dưới 20 tuổi, chúng ta thấy ông bà nội, ông bà ngoại mình nhai trầu bõm bẽm, thượng đài ca múa thì anh và tôi có muốn độn thổ chăng?...
Bây giờ cũng vậy thôi, con cháu anh và tôi thấy chúng ta leo lên sân khấu trổ tài ca hát, liệu chúng có tránh khỏi bị lợm giọng, nổi da gà chăng? Nói chi tới chúng chứng kiến ông bà cố, ông bà sơ chúng bon chen nhảy lên sân khấu, lấn lướt, xô đẩy, giành giựt nhau cái microphone quái ác để hát hò cho bằng được, giễu dở cho bằng được! Có bao giờ anh nghĩ chúng có thể tự hỏi ông bà, cha mẹ ta đã bị con gì cắn chăng?”
Không ngờ hôm nay có người một thời là mệnh phụ phu nhân “nhung gấm lụa là”, nay đã “tan tác như hoa giữa đường” nhưng vẫn còn được chút vinh hạnh làm bà nội bà ngoại, lại cả gan lôi cái thân xác mang nhiều dấu vết tàn phá của thời gian không thể nào chối cãi được nữa -dù vẫn thường xuyên tu sửa nơi các thẩm mỹ viện- lên bục trình diễn múa may quay cuồng, lả lơi buông lời ca tình tứ kích xúc trẻ con và bô lão tận quê nhà!

Người đầu tiên phản ứng mạnh là một chiến hữu trẻ tuổi đang chăm sóc một tờ báo và một trang Web cho Cộng Đồng Người Việt Tị Nạn Cộng Sản tại Hamburg.
Anh viết:


Thân gửi anh Lộc,
Kính gửi quý anh chị trong e.mail được anh Lộc gửi kèm theo mail nầy,

Như tôi đã có lần " tâm sự " cùng anh Lộc, tôi là một hậu bối, sanh sau đẻ muộn.Thật ra, tôi không có mối thù riêng với CSVN. Nhưng vẫn có mối thù chung như tất cả quý vị. Cũng như bà Đặng Tuyết Mai. Ngày tôi vượt biên (một mình), tôi còn " bé tí´", chưa biết thù hận, mặc dù tôi cảm nhận được hình ảnh 30. 04. 75 .Khi được định cư tại đệ tam quốc gia và tới khi " trí thông minh " phát triển, đồng thời tham gia các công việc xã hội của các Hội đoàn địa phương tôi mới thực sự tìm thấy "mối thù không đội chung trời" với CSVN trong tôi. Và 28 năm nay tôi chưa về Việt Nam 1 lần. Tại sao?
Những Ông Bà tai to mặt bự khi xưa, nay lại đùng đùng đổ nhau về Việt Nam. Lắm người chỉ muốn về thăm nhà. Về Việt Nam 4 tuần, thăm nhà đượcc 2 hay 3 ngày ?Tôi không hiểu nổi, những thành phần được gọi là Trí Thức trước 75 đã bỏ quên Lương Tâm của họ đâu rồi? Tôi -một hậu sanh tiểu bối- tôi hiểu được, khi tôi trốn khỏi Việt Nam là: TÔI KHÔNG CHẤP NHẬN CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI ĐẢNG TRỊ CỘNG SẢN VIỆT NAM.
Và khi nào cái đảng nầy còn cầm quyền tại Việt Nam, tôi nhất định không trở về Việt Nam. Không thể hy sinh một chút xíu về mình (về VN chơi), thì làm sao có thể hy sinh cho Chính Nghĩa và Đại Cuộc ???Bà ĐTM nói: "Tôi về Việt Nam để biết rằng mình có một quê hương "…Tôi không về và còn hàng triệu người không về....những người nầy không biết mình đang có một quê hương hay sao?
Tôi cảm thấy xấu hổ với Cha Ông , với Tiền Nhân đã dày công dựng nước và giữ nước... các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã trả nợ non sông bằng tính mạng và ngay cả gia đình của mình....

Kính
Lê Ngọc Tùng
Hamburg, Germany


Vừa xúc động, vừa “xấu hổ” trước nghĩa khí của người trẻ tuổi đầy nhiệt huyết, tôi vội vã trả lời:

Anh Ngọc Tùng thân mến,
Nếu anh theo dõi lộ trình các thân hữu chuyển bài viết kiểu ngồi lê đôi mách, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sô-ốp 100% của một giai nhân ở buổi hoàng hôn của cuộc đời, đã có thời trao duyên nhằm tướng cướp hạng cá kèo, xuất thân đứng bến xe hơi, nhờ thời cuộc và vận may có dịp bay bổng trên mây xanh với bộ đồ bay nặng mùi cải lương "Đàn chim sắt" của ông Bảy Cao, chủ gánh hát Hoa Sen năm nào...để rồi sẵn trớn "trai vô lại, gái lẵng lơ" choàng vai nhau vất vưởng nhào lên ngôi nhân vật số 2 của VNCH thì... chắc anh phải rõ những thân hữu chuyển cho chúng ta bài viết "thiếu trưởng thành trí tuệ, thiếu chính chắn lương tri" (vừa có tính cách "đánh bóng" vừa tạo cơ hội cho "đệ nhị phu nhân đã quá date" bộc lộ những "khắn khít" nặng phần trình diễn với "một quê hương") đã phải từng phen lợm giọng thế nào!
Và tôi nghĩ rằng tôi đã đạt mục tiêu gây phẫn nộ nơi anh, một sự phẫn nộ phải có đối với người liêm sĩ, biết tự trọng -một sự phẫn nộ mà tôi không ngần ngại cho là "thánh thiện" (une sainte colère)!
Tôi cũng chắc chắn là những thân hữu có tên trong điện thư tôi chuyển cùng lúc với anh sẽ phản ứng.
Có lẽ anh cũng rõ là những người nầy thuộc giới truyền thông (Việt Luận-Úc, SàiGòn Nhỏ-Hoa Kỳ, Blog LTL-KT) và họ là những người chẳng thể nào ngửi được chế độ Bắc Bộ Phủ Việt-Hoa nói riêng và mọi chế độ CS trên thế giới nói chung.
Nồi nào úp vung ấy, ngưu tìm ngưu mã tìm mã, chàng vô loại -"Kỳ...nhông" thì nàng không thể nào không đổi màu da xoành xoạch được, phải không?
Nếu anh đọc lại lần nữa các bài phù phiếm luận 1,2,3 thì anh rõ lập trường không bao giờ thỏa hiệp với CS của tôi. Và đó cũng là lập trường chung của nhóm thân hữu chúng tôi, trong đó có anh, Lê Ngọc Tùng
Vì anh cho biết lúc xảy ra đại họa 30.4.75 anh còn bé tí, tôi xin cho anh rõ điều nầy -mà tôi nghĩ có thể anh cũng dư biết -sau 75, những tai to mặt bự, những tên hưởng nhiều đặc ân, đặc quyền, đặc lợi nhất của VNCH là những tên nham nhở hâm hở trở cờ nhanh nhất. Và cũng là những tên làm ăng-ten đắc lực nhất cho bọn cai tù VC trong các trại "cải tạo" cũng như ở phường khóm.
Đáng kể hơn hết là những tên trí thức khoa bảng "đặc-công-nằm-vùng-điềm-chỉ-viên", điển hình là nhóm 3X (Xạo-Xảo-Xỏ Lá) Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lữ Phương, Lý Chánh Trung, Nguyễn Trọng Văn, ế-xết-tê-ra... còn nhiều nữa không kề hết ra...Nổi bật nhất hiện nay là "đôi trái tai gai sắc" Mai-Kỳ-Nhông...Mốt-Kỳ-Đà!

Lần nầy thì d ứt khoát tôi phổ biến rộng rãi toàn bộ điện thư nầy cho các thân hữu của chúng ta. Tôi sẽ đề nghị Việt Luận đưa nội vụ lên trang báo. Tôi tin chắc Đào Nương sẽ lên tiếng trên SàiGòn Nhỏ. Và tôi sẽ tung lên blog LTL cho đám cựu môn sinh của tôi tại quê nhà có thể xem.
Tôi cũng lấy làm tiếc bài "Một sỉ nhục cho ai?", "Vô tình sai sót hay cố ý bóp méo?", "Nghĩ mệt nghỉ trong mùa hè" chưa được xuất hiện trên trang Web của Dân Việt để đồng bào bên Đức có dịp nhận diện một số khuôn mặt "trí-thức-mộng-du-theo-voi ăn bã-mía".
Nói như nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Mai-Kỳ-Nhông, chẳng qua thuộc loại "động đậy cho người ta khỏi quên thế thôi"!
Thân ái chào chiến hữu trẻ tuổi nhưng cương nghị,
-LTL-

Người chiến hữu trẻ cũng nhanh chóng trả lời:

Thân gửi anh Lộc,
Rất cám ơn anh đã bỏ thời gian viết lời tâm tình. Nếu anh có thời gian (hay các quý vị trong Mail được kèm theo đây ) viết mộtt bài " đục " Bà ĐTM thì hay quá.
Quan điểm của tôi là lấy Tình Thương làm căn bản để mở rối các vấn đề, nhưng nó vẫn có giới hạn. Đối với những " loại " không thành thật như Bà ĐTM (cũng như Việt gian NCK v.v...) chúng ta không thể dùng tình thương mà đối xử. " Đục được cứ đục . Đục cho đến khi nào không ngẩng mặt lên được ....vẫn đục tiếp.
Trong tất cả các tội lỗi, có tội đáng được và có tội không đáng được tha. Tội bán đứng anh em mình và tội quên mình là con dân VNCH là những tội không đáng được tha thứ.
Cuộc chiến nào cũng có sự hy sinh. Nếu cần -nói nghe rất vô nhân đạo và tàn nhẫn- (theo ý riêng của tôi) chúng ta phải cắn răng mà hy sinh 1 hay 2 thế hệ (tại VN) để rút ngắn con đường tiêu diệt Giặc Cộng. Sự cắn răng hy sinh mà tôi muốn nói là : KHÔNG GỬI TIỀN VỀ VIỆT NAM VÀ KHÔNG GIÚP ĐỠ MỘT ĐỒNG MỘT CẮC NÀO CẢ VÀ KHÔNG DU LỊCH VỀ VIỆT NAM .
Tiếc rằng đây chỉ là điều không tưởng !!!(?).

Thân kính
Lê Ngọc Tùng


Rất “ấm lòng chiến sĩ”, tôi viết ngay cho người bạn trẻ chưa một lần giáp mặt:

Anh Ngọc Tùng thân,
Rất cảm động trước những lời khí khái của anh. Đáng làm gương cho một số đông các niên trưởng hiện nay đang chao đảo, mất hết hào khí của bậc nam nhi chi chí.
Những người nghĩ như chúng ta càng lúc càng ít. Nhưng vẫn còn đấy anh. Và những chiến hữu nầy của chúng ta chắc chắn khi đọc những giòng chữ nầy của anh cũng thấy ấm lòng chiến sĩ đôi chút...
Đồng ý với anh về khoản ĐỤC đối với đám người không thể dùng tình thương mà đối xử, nhất là cái đám luôn chực chờ xin làm con nuôi của Bắc Bộ Phủ Việt-Hoa ĐỎ...
Cũng tán đồng với anh về mục BA KHÔNG.
Anh yên chí, trong nhóm chúng ta sẽ có người viết về quái nữ ĐTM...
Xin ghi lại đề nghị của một văn hữu gửi cho tôi:
«Tôi nghĩ anh nên viết một bài về mụ ĐTM nầy. Nhất là câu nói “Tôi về VN để biết mình có một quê hương”! Vậy thì ai đã làm chúng ta mất quê hương? Cả hai vợ chồng “hết ý kiến” Mai-Kỳ-Nhông nầy, ngày nào còn lãnh đạo và làm mất nước -không biết nhục- bây giờ sang đây chỉ vì một chút bã danh lợi đã làm mất hết danh dự của người lính» -A.D.-
Thân mến,
LT L

Và việc trao đổi quan điểm tiếp tiếp tục:

-Cám ơn anh Lộc đã quá coi trọng em. Em nghĩ rằng sự suy nghĩ của em và việc làm hiện tại, sự dấn thân phục vụ Cộng Ðồng là một sự hết sức bình thường cho một con người Lưu Vong.
Khi nghĩ đến những chiến sĩ đã hy sinh, những Thương Phế Binh giờ đây còn không bằng phó thường dân tại quê nhà. Chúng ta, những người may mắn còn sống và còn được vô cùng sung sướng bên gia đình, hạnh phúc, bình an và nhất là cái hạnh phúc được hít thở không khí thật sự tự do, dân chủ trong khi hơn 80 triệu người dân đang lầm than (dĩ nhiên không nói đến những thành phần con ông cháu cha và những người nhờ trời đổi gió giờ có chút may mắn v.v..) ..sáng cháo…chiều chưa biết lấy gì để no bụng và sống trong sự tối tăm không hy vọng.

- Càng lúc tôi càng thấy gần người bạn vong niên Tùng, dù chúng ta người bên nầy Đại Tây Dương, người bên kia...Ngày xưa, Rodrigue, một nhân vật trong bi kịch Le Cid của Corneille đã trả lời thái độ khinh khỉnh ,kẻ cả của đại lão công thần Le Comte, đối thủ của Don Diègue, cha mình bằng câu nói để đời: "Je suis jeune, il est vrai...Mais la valeur n'attend point le nombre des années!" (Tạm phỏng dịch: Tôi còn trẻ , đúng vậy...Nhưng giá trị chằng hề chờ số tuổi chất chồng cao!"...Và tôi thành thật nghĩ rằng câu xác quyết nầy ứng dụng hoàn toàn với Ngọc Tùng.
Tôi kể chuyện thật 100% sau đây cho Ngọc Tùng suy gẫm: Sau khi bài viết QHRB của tôi lên mặt báo, một cựu nữ sinh trường trung học Trịnh Hoài Đức (Bình Dương) nhờ toà soạn tờ SàiGòn Nhỏ giúp liên lạc với tôi để xin tôi nghĩ cách đem thanh gươm của cố SVSQ/VBQG từ VN sang Hoa Kỳ, để Hội AH/VBQG/ĐL (Đa Hiệu) vinh danh người quá cố. Công việc đang được kín đáo xúc tiến. Trong câu chuyện trao đổi, người cựu nữ sinh, vợ một cựu VBQG, tiết lộ đã phản ứng mãnh liệt trước thái độ của một số cựu VBQG "xuống cấp, ăn chơi phè phỡn", nếu không nghi ngờ thì cũng thờ ơ châm biếm về câu chuyện tôi kể trong QHRB liên quan tới thanh gươm nầy. Cô nói:
"Tôi thực sự muốn nôn mửa trước thái độ thiếu nghiêm túc của các anh, những người chọn binh nghiệp làm lý tưởng sống. Liên tiếp nhiều lần, các anh đang tâm vác cái thân xác tật nguyền, què quặt , đầy thương tích lãnh nhận từ những chiến công hiển hách chống Việt Cộng về quê nhà ăn chơi, du hí từ Nam chí Bắc...Rồi về lại nơi định cư tung những hình ảnh ăn chơi trụy lạc tục tiểu lên internet phô trương thành tích chơi bời của mình...Bây giờ, tôi đang cùng một số người có tâm huyết lo việc đem một di tích đề cao truyền thống con nhà võ thì các anh, các cựu sĩ quan hiện dịch QLVNCH kiêu hùng, các anh lại...xấc láo dè biễu! Khó tin nhưng có thật!!!"
Anh Ngọc Tùng thấy chưa. Tôi chỉ là một cựu sĩ quan trừ bị...

Rồi người bạn vong niên Lê Ngọc Tùng chuyển cho tôi những nhận định sau đây:

Nghĩ tới câu nói của bà Đặng Tuyết Mai : "Tôi về Việt Nam để biết rằng mình có một quê hương…" là thấy người nóng lên.
Anh Lộc cùng các anh chị thân mến,Có phải bản ngã người Việt Nam chúng ta là:
1-Dễ thờ ơ lại hay im lặng
Có những chuyện nghe (xảy ra) động trời; ấy vậy mà chỉ một vài người lên tiếng…rồi hôm sau cũng là chuyện đã qua.
Ai cũng thấy, ai cũng biết những điếu sai trái trong gia đình, trong xã hội, trong đời sống -nói riêng- và trong bối cảnh lịch sử của chúng ta hiện tại -nói chung.
Thấy mà không dám lên tiếng vì sợ mang họa vào thân. Cho em xin 2 chữ bình an…Im lặng là vàng…
2- Dễ tha thứ
Chuyện động trời như chuyện bán đứng anh em mình đã một thời cùng sát cánh chiến đấu bên nhau. Nặng tội hơn nữa là bán đứng QLVNCH . Ví dụ Nguyễn Cao Kỳ.
Tại sao mấy chú, mấy anh cựu quân nhân bên Mỹ không trùm mền đập cho cha nội này què cả 2 giò (đừng đập chết) để không còn tự do đi đứng nữa. Ðập què giò xong, cắt luôn cái lưỡi để không còn “sủa “ bậy.
….. Thôi, làm ác thì sẽ gặp ác báo…chúng ta, ai cũng nghĩ vậy. Cứ kệ đi. Thế nào trời cũng phạt.
Chúng ta nhẹ dạ, dễ trốn trách nhiệm và hay sợ luỵ vào thân… mọi chuyện cứ giao cho ông trời…để được yên thân.
3-Dễ quên
Hầu như phần đông đã quên mình là người Tỵ Nạn. Và vẫn luôn là người Tỵ Nạn …dù cho mình đã có thẻ xanh, thẻ vàng, thẻ đỏ hay thẻ đen v.v… Tất cả đều nhanh chóng chấp nhận quê hương thứ 2 thành “Ðất nước” của mình khi chăn êm nệm ấm , nhà cao, cửa rộng …Và như vậy, họ đã chấp nhận bỏ rơi 80 triệu dân VN bên kia Thái Bình Dương để sống cuộc đời ích kỷ cho riêng mình.
Các thành phần trí thức cùng các cựu Quân nhân! Một số đã “tình nguyện” về thăm quê hương. Quên đi mình đã là ai. Quên đi những ngày tháng bị giặc cộng dày vò, hành hạ, mắng nặng, sỉ nhục trong trại tù cải tạo. Và họ đã quên họ là CHIẾN SĨ của QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA !!!
Quê hương đang chờ họ. Nếu những thành phần trí thức, những Sĩ Quan và Chiến Sĩ của QLVNCH không là những thành phần nồng cốt để dạy dỗ , huấn luyện, nung nấu tinh thần , làm gương cho thế sau -thế hệ thứ 2 và thứ 3- thì còn ai sẽ lãnh trách nhiệm này đây? Họ quá mau quên, họ đã một thời hưởng ân, ăn cơm của Việt Nam Cộng Hòa…

Ðể vấn đề được giải quyết nhanh chóng, để rút ngắn thời gian đấu tranh tiêu diệt Giặc Cộng, để ngày chúng ta cùng kéo nhau trở về xây dựng một VN Ðệ Tam Cộng Hòa, chúng ta cần siết chặt hàng ngũ, đoàn kết, can đảm hơn nhiều nữa. Và nhất là đừng quá mau quên, dễ quên mối thù mất nước.
Ðấu tranh rõ ràng (nếu cần thiết cũng được phép xử dụng biện pháp mạnh) thì bọn Việt Gian, Việt Cộng nằm vùng và những kẻ đang có ý gian manh trong đầu mới “Tè” chúng ta.
Nếu chúng ta, những Người Việt Quốc Gia, không tự giúp và tự giải quyết chuyện của mình được thì sẽ không ai giúp mình. Và cũng đừng mong chờ ai giúp mình.

Sau những trao đổi, góp ý trên đây, chúng tôi nhận thấy quả thực câu chuyện phản lão hoàn đồng ỏng ẹo nhạt phèo giúp vui của bà cựu Phó Tổng Thống VNCH đã v ượt quá khung cảnh tranh luận “văn nghệ” thông thường. Nó chỉ là chất xúc tác cho mọi uất ức, bất mãn bùng nổ dữ dội hơn trước hiện tượng “xuống cấp” thê thảm của một số quan chức VNCH cũ đã nhục nhã quỳ lụy CSVN để “kiếm chút cháo” hoặc để được thoải mái du hí du thực vô tội vạ trên một đất nước mà biết bao sinh linh của chiến hữu và đồng bào của họ đã hy sinh xương máu của mình để bảo vệ nó suốt mấy mươi năm chinh chiến ác liệt.
Nước mất nhà tan trong tay ai giờ đây, hỡi ông tướng xuội râu Nguyễn Cao Kỳ-Nhông đang liếm tay lũ cộng phỉ, bà xồn xồn Đặng Tuyết Mai-Săn-Mồi ôm mộng ca kỷ “phục vụ” triều đình Mã Tấu Bắc Phương Hoa-Việt?

Xưa kia ông tướng đích thân lái máy bay hô hào “Bắc phạt”. Phải chăng theo luật ơn đền oán trả, ngày nay ông cúi đầu cho Bắc nó phạt ông? Bà tướng cũng không kém “khí thế” trong bộ đồ bay, suýt chút đã leo lên chiến đấu cơ cùng ông tướng tàu bay “Bắc phạt” luôn đấy. Giờ đây bà tướng trút bỏ xiêm y kiêu hùng ngày xưa, mưu toan vừa ca vừa vũ… “xách-xi” cho nó thêm ph ần “khí thế” hơn xưa trước lũ người suýt bị bà “Bắc phạt” hụt ngày trước. Phải chăng, cũng theo luật oán trả ơn đền như đức lang quân của bà, bây giờ Bắc nó phạt bà làm trò “xách-xi-sô” cho chúng nó rửa mắt?
Ông “Kỳ-Nhông” và bà “Săn-Mồi” có ý thức mình đã đi từ Kỳ đà hơi Kỳ cục, quá Kỳ khôi tới Kỳ…nhông ch ăng?
Để tạm kết thúc, xin chuyển một nhận định duy nhất của tôi liên quan tới “văn nghệ” trong bài viết nầy, làm quà tặng mỹ-nhơn-xế-chiều đang tập tành làm ca-vũ-sĩ: «L’on est né artiste. Rarement et péniblement, on le devient. Mais l’on ne s’improvise artiste que ridiculement». Xin phỏng dịch: Ta vốn sinh ra là nghệ sĩ. Rất hiếm hoi và khó khăn lắm, ta mới trở thành nghệ sĩ. Nhưng muốn tùy hứng (cương đại) làm nghệ sĩ, ta chỉ tổ khiến mình lố bịch).

Thôn trang Rêu-Phông, mùa hè 2008
-Lê Tấn Lộc-

Tuesday, July 22, 2008

Anh em nhà họ Lê


Hình chụp đêm Giao thừa Tết Mậu Thân trên sân thượng nhà Kiệt Tấn (đường Bạch Đằng- Hàng Xanh-Gia Định):
Từ trái sang phải: anh hai Lê Tấn Phát; anh ba Lê Tấn Lợi (nhà thơ Lam Sơn); Ba Lê Minh Châu; năm Lộc -Lê Tấn Lộc-; sáu Kiệt-Lê Tấn Kiệt-Kiệt Tấn.
(chỉ thiếu chị Tư Lê Thị Trinh, một trong những nhân vật chính trong Việt Nam Thương Khúc và Má, Nguyễn Thị Diệu, nhân vật chính tro
ng Nụ Cười Tre Trúc)

Tuesday, July 15, 2008

Tản mạn về Collège de Vinhlong


Mở Đầu:

Đọc “Đặc San Giáp Thân 2004-Mái Trường Xưa” do Hội Ái Hữu Cựu Học Sinh Tống Phước Hiệp ấn hành, tôi hết sức vui mừng thấy đôi bạn đồng nghiệp Đào Khánh Thọ-Võ thị Ngọc Dung cuối cùng thực hiện được hoài bão của chính mình, của nhiều thế hệ cựu giáo sư, cựu học sinh, cựu nhân viên của trường.
Đó cũng là niềm ước vọng từ lâu của nhóm cựu học sinh khóa đầu tiên chúng tôi qua nhiều buổi họp mặt trước năm 1975 tại Sài Gòn, và gần đây, năm 1994 tại Lake Forest, California. Nhưng cho tới nay chúng tôi vẫn chỉ là nhóm vận động và chỉ làm được công việc tương thân tương trợ quí thầy cô và các bạn đồng khóa, hoặc bằng hiện kim hoặc bằng quà cáp nhân dịp Tết. Có lẽ vì chúng tôi ở quá rải rác khắp năm châu, quá già yếu, lại thiếu phương tiện tối tân liên lạc nhanh chóng.
Đồng thời, tôi cũng thấy phần nào buồn tủi: Collège de Vinhlong, nếu được nhắc tới cũng chỉ còn là một thứ bóng mờ vất vưởng bên lề như “Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than...” Điều đó cũng dễ hiểu thôi, vì các cựu học sinh Collège de Vinh Long phần lớn đã “lụm cụm.” Vả lại họ chỉ là một nhóm nhỏ so với tập thể vô cùng to lớn cựu học sinh Nguyễn Thông-Tống Phước Hiệp, mà đại đa số hầu như còn rất “mạnh giỏi.”
Điều thiếu sót vô tình của chúng tôi là không có cơ hội góp mặt, góp tiếng nói thân tình với các anh em cựu học sinh các lớp sau, để phần nào bổ túc, điều chỉnh một vài sai sót vô ý của các anh em. Chẳng hạn như:
Cho rằng: “Trung tuần tháng 10 năm 1955, nếp sinh hoạt của hai lớp Cinquième Moderne A và B (tương đương với lớp đệ ngũ sau này) sôi động lên...” là không đúng. Collège de Vinhlong (năm 1951, đổi tên Việt: Trường Cao Tiểu Vĩnh Long, năm 1954 đổi tên lần nữa: Nguyễn Thông) không hề có chương trình Enseignement Moderne. Cho tới năm 1955, trường vẫn chỉ áp dụng độc nhứt chương trình Bốn Năm (đệ nhứt niên, đệ nhị niên, đệ tam niên, đệ tứ niên: 1 ère, 2 è, 3 è, 4 è Année). Chuẩn bị cho học sinh thi lấy bằng D.E.P.S.I (Diplôme d’Études Primaires Supérieurs Indochinoises), gọi nôm na là bằng Đíp-Lôm hay bằng Thành Chung. Chương trình Moderne chỉ được giảng dạy ở các Lycée Chasseloup-Laubat, Pétrus Ký, nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản. Lớp 5 è: Moderne tương đương với lớp đệ lục chương trình Việt lúc đó. Năm 1956 trường Nguyễn Thông mở hai lớp đệ tam mới, đón nhận hai lớp đệ tứ niên cũ vừa mới mãn học trình bốn năm. Sau đó, các học sinh này phải sang trường Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho tiếp tục học lớp đệ nhị.
Dưới tên tác giả Bào Mỹ Nguyễn văn Kính mà phụ chú: “Nguyễn văn Kính, hiệu trưởng lâu năm nhứt của trường Trung Học Nguyễn Thông-Tống Phước Hiệp” là không đúng hẳn, vì theo thứ tự thời gian, cần phải nêu thật rõ như sau mới trung thực: Nguyễn văn Kính, le Premier Directeur du Collège de Vinhlong (1949-1951), Hiệu Trưởng trường Cao Tiểu Vĩnh Long (1951-1953), Hiệu Trưởng trường Trung Học Nguyễn Thông (1953-1956). Thầy Nguyễn văn Kính không thể nào làm Hiệu Trưởng trường Tống Phước Hiệp vì thầy đã rời Vĩnh Long năm 1956 và năm 1957 thầy đã là Hiệu Trưởng trường Pétrus Ký.

Vào Truyện:

*Thầy Tư “Hón”

Người đàn bà luống tuổi vẫn còn giữ được phong cách nhanh nhẹn của một vị cao niên mà sức khỏe vẫn còn tốt, ánh mắt đã bớt long lanh, đã có phần “hom hem” nhưng vẫn không sút giảm nét linh động, nụ cười vẫn tươi tắn... đã không nhận ra tôi lúc tôi cúi đầu chào: “Thưa chị Tư...” Năm mươi năm rồi không gặp. Nửa thế kỷ! Không nhìn ra nhau cũng là lẽ đương nhiên. Tôi ước đoán ít nhứt chị cũng hơn tôi mười tuổi. Mà lúc đó tôi đã tròm trèm “thất thập cổ lai hi”!
-Lộc-Nguyễn Trãi đây mà chị Tư!
Người đàn bà trọng tuổi lộ vẻ bối rối không bắt được mạch hoài niệm. Cũng dễ hiểu. Làm sao chị còn nhớ được cậu bé con non choẹt chưa bể tiếng, lớp đệ nhứt niên bậc Thành Chung của Collège de Vinhlong, đã cất tiếng hát thảnh thót: “Chim kêu não nùng trên non bao la...” trong vở kịch dã sử ‘Hận Nam Quan’, do chính Thầy Tư Hón, người chồng lỗi lạc của chị biên soạn năm mươi ba năm về trước? Làm sao chị còn nhớ nổi chàng thiếu niên bắt đầu bể tiếng, đã hùng hồn, tha thiết trỗi giọng rền vang trong nhạc cảnh “Khúc hát sông Thao,” cũng do chính thầy Tư dàn dựng hai năm sau đó?
Văn Chinh, đứa em họ của tôi nhắc khéo: “Thưa cô, anh năm Lộc của em từ nước ngoài trở về thăm quê hương sau hai mươi ba năm biệt xứ, anh vẫn còn nhớ đường qua cầu Thiềng Đức và nhớ căn nhà của thầy cô, nên nhờ em đèo Honda đến tìm gặp ‘anh Tư Hón yêu dấu của mình.’ Anh Lộc đã từng là ‘kép chánh của trường Cao Tiểu Vĩnh Long’ suốt bốn niên khóa, và là ‘đệ tử ruột của thầy Tư’...”
Người đàn bà tuổi đã xế chiều, nhan sắc vẫn còn phảng phất nét kiều diễm vẫn chưa đánh thức được hồi ức, mời chúng tôi ngồi đợi trên bộ salon gỗ cổ kính bằng gõ đỏ...
Tôi nghẹn lời, ứa nước mắt ôm chằm lấy người đàn ông già yếu đang được “chị Tư” dìu từ trong buồng bước ra chậm rãi từng bước một, mà tôi chỉ còn nhìn ra được nụ cười thoảng nhẹ trên môi, tóc đã thưa thớt gần hói trọc, mắt đã thờ thẫn nhìn lơ đãng, nhưng nét cường tráng một thời vẫn còn ẩn hiện sau bộ đồ ngủ.
-Anh Tư! Em đây! Lộc-Nguyễn Trải, Lộc-Lê Lai, Lộc-Ngô Quyền đây, anh Tư!
Người đàn ông già nua vẫn không chút xao động. Ký ức người đã rong chơi xa rồi! Anh Tư “Hón” yêu dấu muôn thuở của tôi, người thầy khả kính luôn luôn cận kề học trò mình ở nhiều thế hệ mà tôi và các bạn đồng liêu, niên khóa đầu tiên của Collège de Vinhlong (1949-1950) đã được may mắn thụ huấn, anh Tư (biệt hiệu “Hón”, vì thuở còn học trường Taberd có tính hay phá phách, nên các sư huynh gán cho biệt hiệu là “Diable Hun”), anh Tư Hón thần tượng thuở niên thiếu của tôi đã hoàn toàn lạc thực vì chứng bệnh Alzheimer...
Bốn bức tường của căn nhà mà năm mươi năm qua bạn bè và tôi không có dịp bước đến vui họp đoàn với gia đình thầy cô (đúng hơn, gia đình anh chị Tư: Thầy Tư yêu cầu và chỉ cho phép nhóm văn nghệ lớp tôi gọi thầy cô bằng “anh chị” cho thân mật), treo đầy ảnh sinh hoạt văn nghệ, thể thao của trường, sưốt thời gian anh Tư phục vụ.
Tôi huyên thuyên nhắc nhở kỷ niệm, kể cả kỷ niệm đau thương, lần chỉ có mình tôi có mặt khi anh chị mất đứa con trai thứ hai. Chị Tư chăm chú nghe, khi nhớ khi không. Lúc tôi hỏi thăm Tùng, đứa con trai đầu lòng của anh chị, cả một vùng kỷ niệm như chợt hồi sinh với chị Tư. Còn anh Tư thì tuyệt nhiên vẫn lơ lửng. Nhưng khi tôi vói tay cầm cây mandoline “khẩy” bản “Tuổi Thơ”, mắt anh hình như có ngấn lệ. Và khi tôi đánh guitare bản “Thu Quyến Rũ”, đôi mắt lạc thần đó dường như có dấu hiệu tập trung và đôi môi anh hình như mấp máy... Nước mắt tôi thực sự tuôn trào...
Hai năm đã trôi qua, từ lúc tôi gặp lại anh chị Tư Hón. Đầu óc tôi chật cứng hoài niệm thân thương về ngôi trường thuở mới lớn, biết mơ mộng, biết tương tư, biết vỡ mộng, thuở mới chập chửng bước lên sân khấu học trò và...vướng vào nghiệp chướng văn nghệ.
Cơ duyên nào đưa đẩy tôi gặp được Thầy Tư Hón? Tôi nghĩ phần lớn có lẽ vì thuở còn lỏi tì (lớp tư, lớp ba), các thầy đã “khám phá” chất văn nghệ nơi tôi. Suốt ba năm tản cư vì chiến cuộc, tôi và thằng em út tôi (Kiệt Tấn sau nầy) đã ca múa “Mừng Xuân”, “Mắng Lê Tắc” vân vân để vận động đồng bào nuôi kháng chiến quân chống thực dân Pháp. “Mầm non văn nghệ” nầy được quí thầy lớp nhì, lớp nhứt nuôi dưỡng trong các kỳ văn nghệ phát thưởng cuối năm.
Rời Bạc Liêu lên Vĩnh Long học, lúc mới vào lớp 1 ère anneé, trong giờ huấn luyện thể dục, tôi vô ý đánh rơi trên sân vận động bài thơ học trò và thầy Tư tình cờ lượm được: Đời tôi là cả một bài thơ, Cả một bài thơ rũ bụi mờ, Cả một bài thơ không đầy ý, Là đời nghệ sĩ sống vì mơ...
Thêm vào đó, không rõ ngẫu nhiên hay tiền định, hai nơi tôi cư trú ở Vĩnh Long, một bên kia, một bên nầy cầu Lộ đều gần rạp hát. Hằng ngày máy phóng thanh cứ ra rả hết cải lương tới “nhạc cải cách” (tân nhạc).
Con đường Krautheimer (sau là Võ Tánh), trước rạp hát Lạc Thanh thường dẫn bước tôi tới góc đường Châu văn Tiếp, cạnh cầu Bà Điều, để tôi đứng lặng yên cho tiếng dương cầm của chị Bé từ một biệt thự réo rắt ru hồn mình.
Cũng trên con đường Võ Tánh nhiều sắc thái văn nghệ nầy, hai hình ảnh tuyệt đẹp vẫn còn hiện rõ nét trong ký ức tôi: chàng thanh niên trắng trẻo đẹp trai, gầy gầy, dõng dõng cao, dáng điệu rất thư sinh trong bộ bà ba trắng, thong thả đếm bước, tên Thế (hình như có họ hàng với G.S. Nguyễn văn Trường) và Xuân Lan, cùng lớp tôi, đẹp như tranh, đài các, kiêu sa nhưng vẫn pha lẫn với e dè, thẹn thùng, bẽn lẽn, thướt tha tung tà áo trắng phất phơ trong nắng sớm... Xuân Lan sau nầy có thời là Dân biểu đệ I Cộng Hòa, là thần tượng yêu đương... “Cao nguyên ngực, sóng trùng dương mắt biếc” của cố thi sĩ Tạ Ký, qua tập thơ “Sầu Ở Lại.”
Nghiệp chướng văn nghệ... cho tới nay tôi vẫn còn đa mang! Tôi thường ca đùa với hai đứa bạn cùng lứa, một thời, khi đã ông ông mụ mụ rồi có dịp “mần” văn nghệ chung: “bạn bè mình còn có ba thằng. Đứa đi (Đào Khánh Thọ), đứa ở (Lâm Võ Huỳnh), đứa đang tật nguyền (LTL, tiếp tục lãnh thẹo văn nghệ dài dài...)”.
Điểm trớ trêu của số phận: Đ.K.T. cựu học sinh Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) “chăm sóc” Hội AHCHSTống Phước Hiệp (Vĩnh Long). Còn tôi, cựu học sinh Collège de Vinhlong lại “chăm lo” Hội AHCHSTHMT (Mỹ Tho)...

**Thầy Nguyễn Văn Kính

Đêm nay tình cờ xem cuốn video do anh Đ.K.T gởi tặng và chăm chú theo dõi câu chuyện thầy trò Tống Phước Hiệp trao đổi, cũng như đọc qua Đặc San của Hội AHCHSTPH, tôi thấy cả một vùng hoài niệm xanh về ngôi trường thân yêu nói riêng và tỉnh Vĩnh Long hiền hòa nói chung được khơi động dậy. Và thấy cần góp ý kiến bổ túc, bởi vì anh Hội trưởng có đề cập tới ông Nguyễn văn Kính, người thầy mà hầu hết học sinh tỉnh Vĩnh Long, nếu có dịp tiếp xúc đều hết lòng mến mộ và kính phục.
Thầy Nguyễn văn Kính không những là một ông thầy đã đào tạo nhiều thế hệ học sinh tài danh mà còn có công đầu trong việc phát triển giáo dục bậc trung học tại tỉnh nhà. Thầy còn là một tay đánh quần vợt xuất sắc, với các cú “Xì- mách” (smash) ác liệt và độc đáo. Ngoài công việc của một nhà mô phạm, thầy còn khuyến khích và tham dự các sinh hoạt xã hội và văn hóa trong tỉnh, nên được dân chúng quí trọng như một Nhân Sĩ.
Sau khi ráo riết vận động thân hào, nhân sĩ, các cấp chính quyền từ địa phương tới trung ương, thầy Kính thành công trong việc khai sinh ngôi trường trung học công lập thứ năm cho miến Nam Việt Nam tại tỉnh Vĩnh Long (sau các trường Chasseloup-Laubat, Collège de Mytho, Lyceé Pétrus Ký, Collège de Cantho, Collège Gialong), mang tên Collège de Vinhlong, khai giảng tháng 10 năm 1949 với hai lớp 1 ère anneé A (Nữ) và 1 ère anneé B (Nam), mỗi lớp 55 học sinh, sau kỳ thi tuyển qui tụ học sinh các tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc và Trà Vinh.
Trường sử dụng một công ốc vốn là nhà Dưỡng Lão, đối diện với cổng chính dẫn vào Thánh Thất Cao Đài. Con đường trước trường lúc đó vẫn còn trải đá xanh lởm chởm. Từ trong trường nhìn ra, bên phải là Miễu Bà Cố với Cây Da Cửa Hữu (di tích lịch sử), bên trái là Tiểu Chủng Viện (Petit Séminaire) Công giáo.
Năm 1951 và 1952, trường phát triển, cất thêm hai dãy phòng, một song song với Petit Séminaire, một song song với phía sau nhà Dưỡng Lão. Lúc bấy giờ trường có ba cấp lớp, mỗi cấp hai lớp. Trường đổi tên Việt: Trường Cao Đẳng Tiểu Học Vĩnh Long, gọi tắc là trường Cao Tiểu Vĩnh Long.
Năm 1953, với 4 cấp lớp, mỗi cấp 2 lớp, lần đầu tiên trường gởi học sinh 2 lớp 4 è anneé A và B sang Mỹ Tho dự thi lấy bằng “Diplôme”. Kết quả rất khả quan.
Năm 1954, trường đổi tên mới: Trung học Nguyễn Thông. Sau đó Collège de Vinhlong nguyên thủy dời đi địa điểm mới với tên mới: Trung Học Tống Phước Hiệp. Trụ sở cũ được cải biến thành trường Trung học Bán Công Nguyễn Thông.
Một vài nét sinh hoạt của Collège de Vinhlong được tôi ghi lại trong bài “Gối Rơm”, viết năm 1991, kèm theo bài viết nầy.
Kỷ niệm học trò nói bao giờ cho hết. Tôi chỉ xin nêu ra đây vài sự việc mà tôi nghĩ có thể còn trong trí nhớ của một số học sinh thời đó:
Từ năm 1949 tới năm 1953, Ban Giám Đốc gồm có các thầy: Nguyễn văn Kính (Hiệu trưởng), Nguyễn văn Kỷ Mậu (Tổng Giám thị). Ban Giảng Huấn gồm các thầy cô: Phạm văn Thàn (Toán, Lý Hóa), Nguyễn thị Sương (Pháp và Anh văn), Dương văn Tường, bút hiệu Dương Bích Thủy (Việt văn), Phạm văn Tệt (Pháp văn), Thầy Bảo (Vạn vật, Hán văn), Lê văn Sĩ (Hội họa), Nguyễn văn Tư, tự Hón (Thể dục và Âm nhạc), thầy Bá (Việt văn), Phạm hữu Thiết (Pháp văn và Sử Địa), thầy Khiêm (Toán, Lý Hóa), Vũ đức Chang (Toán và Anh văn), thầy Trương (Vạn vật và Sử Địa), thầy Chánh (Pháp văn), thầy Sến (Pháp văn), cô Hưng (Nữ công Gia chánh), vân vân. Ban Giám Thị các thầy Mẫn, Còn...
Năm 1952, hai vị Thanh tra Tiểu học, thầy Ân và thầy Quế cùng tài xế bị Việt Minh phục kích giựt mìn sát hại. Cả tỉnh xôn xao, học sinh toàn tỉnh, tiểu và trung học mặc toàn màu tang trắng tham dự lễ tống táng, đã diễn hành trên các đường phố lớn dưới cơn mưa tầm tã.
Cũng năm đó, thầy Kính mất một đứa con trai, té lầu tử nạn. Cả tỉnh một lần nữa, xôn xao, nhứt là giới học đường. Học sinh trung tiểu học cũng diễn hành đưa đám con thầy Kính. Tất cả đều rất xúc động.
Năm 1953, do lệnh tổng động viên, một số các thầy phải lên đường nhập ngũ. Cha sở Joseph Trần văn Thiện (sau này là Cha Viện Trưởng Viện Đại Học Đà Lạt, Đức Cha Tổng Giám Mục địa phận Mỹ Tho), lúc bấy giờ là Giám đốc Tiểu Chủng Viện cùng một số linh mục được cử sang thay thế các thầy, giảng dạy các môn Toán, Lý Hóa, Pháp văn...
Cũng năm nầy và nhiều năm sau nữa, đã nổ ra một loạt “xì căng đan” mà các nhân vật liên lụy đều có tên bắt đầu bằng chữ T. Thầy Tư “Hón” cũng chữ T, hoàn toàn trắng trong, tác phong đạo đức vẫn gương mẫu.
Điểm đáng nêu ra nơi đây là ở thời điểm đó, dù tình thầy trò còn chịu ảnh hưởng nặng nề của Khổng giáo, ban Giám Đốc và tuyệt đại đa số các thầy cô đều rất rộng lượng, nhân ái đối với đám môn sinh “quỷ phá nhà chay” chúng tôi!


***Các Sinh Hoạt Khác:

@Thể Thao

Sân vận động (sau nầy được cải biến thành Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu Vĩnh Long) là nơi lúc nào cũng đông nghẹt học sinh các trường C.T.V.L., tư thục Long Hồ và Nguyễn Trường Tộ, các nam nữ học sinh tiểu học trong tỉnh. Chạy đua nước rút (sprint), đường trường (marathon), tiếp sức (relais), nhảy cao, nhảy xa, leo dây, barre fixe, anneaux, parallèles, đá banh, bóng chuyền thể dục đồng diện (mouvements d’ensemble), diễn hành với đồng phục đặc biệt (défilé folklorique) là những bộ môn phổ thông nhứt. Một đội bóng chuyền, một đội đá banh của trường Cao Tiểu Vĩnh Long được thành lập, dưới sự huấn luyện và chỉ đạo của thầy Tư Hón, vừa là giáo sư Thể dục vừa là “ông bầu” văn nghệ của trường.
Năm 1951, trường Cao Tiểu Vĩnh Long gởi phái đoàn học sinh tham dự Đại Hội Thanh Niên và Thể Thao toàn quốc, tổ chức tại Sài Gòn. Trường về hạng nhứt về diễn hành, hạng nhì về chạy đua tiếp sức. Đa số các thành viên trong phái đoàn đều là thành phần văn nghệ nòng cốt của trường.
Trường cũng đưa các đội bóng chuyền, bóng đá đi đấu giao hữu với các đội bạn ở Mỹ Tho, Sa Đéc, Cần Thơ, Trà Vinh. Cũng như đã đón tiếp các đội bạn này ở tỉnh nhà. Và hầu như lần nào đội của trường cũng thắng.
Một số không ít các “đệ tử” của thầy Tư Hón nối nghiệp thầy, trong số có chị Liễu, cùng lớp với tôi, nữ huấn luyện viên Thể dục đầu tiên của tỉnh nhà, xuất thân từ trường Cao Tiểu Vĩnh Long.
Một môn đệ khác của thầy Tư, Võ văn Hải, hỗn danh “Hải cử tạ” đã nhiều lần đoạt giải Lực Sĩ Đẹp, thập niên 60. Hai môn đệ khác cũng nổi tiếng “đô con” trong giới thể dục thẩm mỹ: Trang Sĩ Tấn và Hồ Văn Hòa. Tấn có thời “mần” rất “bự” trong ngành phú lít và lính kín. Hòa, nguyên Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 35 Biệt Động Quân, vừa đánh đấm xuất sắc, vừa văn nghệ văn gừng một cây xanh dờn, đã tạo được thành tích đáng kể trên sân khấu học trò với bản đơn ca “Bánh Xe Lãng Tử” năm 1956.

@Văn Nghệ

Thầy Hiệu trưởng Nguyễn văn Kính, còn được thuộc cấp và học sinh thân mật gọi là Mơ xừ Te (thanh tra liên tỉnh: inspecteur interprovincial), ông “Đìa” (Giám đốc trường Directeur du Collège)) trực tiếp và thường xuyên yểm trợ, khuyến khích, đốc thúc sinh hoạt văn nghệ của trường, với sự hỗ trợ tối đa của thầy Tổng giám thị Nguyễn văn Kỷ Mậu. Thầy Tư Hón trực tiếp điều khiển sinh hoạt nầy với sự trợ lực tận tình của Nhóm Văn Nghệ Hướng Dẫn gồm các thầy cô Nguyễn thị Sương, Dương văn Tường, v...v...Sự kiện nầy tạo sự đôi co giữa một vị giáo sư “công thần chủ nghĩa” với Nhóm Văn Nghệ Hướng Dẫn. Thầy T.G.T. Kỷ Mậu “thố lộ” với tôi, trong một buổi họp hội đồng giáo sư bàn cãi trao phần thưởng danh dự toàn trường cho một học sinh “nòng cốt văn nghệ,” thầy T. đã “xỉa xói” “Nhóm V.N.H.D.: “Chỉ có mấy ông bà rung chuông (ám chỉ thầy Kỷ Mậu), kéo màn (ám chỉ thầy Tư Hón), vẽ mặt (ám chỉ cô Nguyễn thị Sương) mới có triển vọng thăng tiến nghề nghiệp (!). Thầy Kính nghiêm khắc cảnh cáo và yêu cầu thầy T. rút lời phát ngôn “bừa bãi”, cùng xin lỗi các đồng nghiệp.
Nhóm V.N.H.D. được sự cộng tác đắc lực của Ban Nhạc “Ly Tao”, gồm có thầy Nh. bên Tiểu học (accordéon), quí thầy công chức và quân nhân: Thầy Ba Ca-Đát (cadastre) guitare, thầy Lợi-Sở Bách Phần (mandoline, banjo), thầy Duy, thầy Vạng (violons), vân vân. Lúc ấy “batterie” chưa thông dụng nên phần nhịp điệu (rythme) được biểu diễn bằng cách “lắc” maracass “gõ” muỗng, “đánh bát” (basse) trên mandoline. banjo và bằng những ắc-co (accords) “giựt” xập xình trên guitare!
Ban Văn Nghệ học trò thời đó gồm các khuôn mặt nòng cốt quen thuộc với phụ huynh học sinh: L.T.L.-Nguyễn Trải, Võ Trung Thứ-Lê Lợi, Nguyễn văn Thục-cha già Phi Khanh, Lê Hoàng Tông-Ba Tàu Tông, Nguyễn văn Giác-Tướng Chệt, Võ ngọc Các “dùi đục văng tục”, Nguyễn thế Hưởng, Nguyễn Phát Phước, Võ minh Kiểng (3 danh hài), Nguyễn Trưởng Nhi-Trầu Cau. Lê thị Lý Lan Anh-“Le Médecin malgrélui”, Lê thị Nguyệt Yến-Liễu Nhi, Nguyễn thị Hảo- Huyền Trân, Võ kim Ngọc Hà-Chế Võ, Duyên-Chế Mân, Hồng Cúc-giọng oanh vàng, thinh sắc vẹn toàn, Phan Nguyệt Vân-“Tuổi Thơ”, Lê thị Nguyệt Ánh-chim sơn ca, Nga-cung phi, Nguyễn Nguyệt Ánh (vợ K.T. sau nầy) trong đoàn vũ nón, lụa và vũ Hận Đồ Bàn, vân vân.
Phần giải trí lành mạnh do thầy Mai bên Tiểu học phụ trách: chiếu bóng cho học sinh toàn tỉnh trong một phòng hội nằm trong khuôn viên trường Nam Tiểu Học tỉnh lỵ. Thuở đó, Tiểu học và Trung học hợp thành một thực thể giáo dục thuần nhất dưới quyền điều khiển của thầy Nguyễn văn Kính.
Trong số các nữ sinh văn nghệ C.T.V.L., tới nay tôi còn giữ một hình ảnh rất cao đẹp, thương tâm, vì đó là một mối tình “câm nín” (Thì thôi người cứ yên tâm nhé, Tôi chẳng bao giờ dám nói đâu) về một người nữ “thinh sắc vẹn toàn, giọng oanh vàng”: Hồng Cúc. Để “tỏ tình” tôi chỉ dám chép thơ Nguyễn Bính gởi cho nàng!
Rồi đây, đi lại trên “con đường xưa em đi” quen thuộc khi xưa ở Vĩnh Long tôi chỉ còn biết thì thầm: Chỉ một lần anh gọi tên em, Một lần môi say rượu đêm rằm, Anh nằm trong khối sầu tưởng nhớ, Phố cũ hè xưa đâu dấu chân? “Xin còn gọi tên nhau” cho tới nay vẫn còn là ca khúc tôi “thấm” nhứt!

@Học Hành và Chọc Phá

Hai học sinh “già” xuất sắc thuở đó, chuyên viên học nhảy... lớp là hai anh Nguyễn văn Vẹn và Lương ngọc Ẩn. Cả hai sau đó trở thành giáo sư Toán và Pháp văn của trường Nguyễn Thông-Tống Phước Hiệp.
Mức độ chăm sóc, khích lệ học sinh được thể hiện qua “dấu ấn” đặc biệt của “ông Đìa”. Mỗi cuối tháng, thầy N.V. Kính, với sự tháp tùng của các thầy cô đến từng lớp một đọc bảng xếp hạng. các học sinh lần lượt xếp hàng theo thứ tự được xướng danh. Sụt hạng hay lên hạng đều được “ông Đìa” hỏi thăm sức khỏe. Học sinh đương sự phải lập lại lời thầy nhận xét: Tôi hạng thứ... Tôi đã đứng hạng thứ... Vậy, tôi lên được mấy hạng... (hoặc) tôi sụt xuống mấy hạng... Lên: ưu hạng (c’est excellent!). Xuống: Thảm hại quá cở (c’est énorme!). Đội sổ: Vậy, tôi cầm đèn đỏ (Donc, je tiens la lanterne rouge!)”. Trò Trọng (lớp tôi) và trò Kiểng (lớp kế) thường là mục tiêu “xạ kích” của thầy Kính. Nhờ đó mà hai “nạn nhân” luôn luôn cố gắng lên hạng!
Một trong những đặc điểm của lớp tôi là châm chọc: sửa tên, ghép tên, kèm danh hiệu cho bạn bè. Chẳng hạn, Trần văn Giêng thành T.V. Điên, Lê an Lòng thành Lê ăn..., Bùi thế Xương thành Bò té Sông, Trần Bá Xử thành Hà Bá Xử, “Các-Thứ-Lòng-Tông-Giáo-Giác”, “Sáu” Trọng, Hưởng-dầu thơm, Phong-chủ Mạnh, Huỳnh quang Nhựt-cá thòi lòi, Nhi-hột mít, Yến-cá bống mú, Ánh-chim chìa vôi (thay vì “con chim sơn ca” do thầy Tư khen tặng giới thiệu trên sân khấu), vân vân.

****Còn Lại Gì...Sáng Mai Đây?..

Lần về thăm lại Vĩnh Long, tháng 3 năm 2003, tôi đã đứng tần ngần rất lâu trước trường Collège de Vinhlong cũ: cửa vào Thánh Thất Cao Đài, Tiểu Chủng Viện vẫn còn, dù chỉ là cái xác không hồn. Miễu Bà Cố vẫn còn đấy, nhưng khung cảnh trang nghiêm, không khí huyền bí đã tan loãng. Cây Da Cửa Hữu có vẻ tiều tụy, mà hẳn nét mầu nhiệm và lôi cuốn thơ mộng, từ muôn thuở vẫn là chứng nhân cho bao cảnh vật đổi sao dời, cho những “cuộc tình không tới”. Cây da trước miễu ai biểu cây da tàn, Bao nhiêu lá rụng anh thương nàng bấy nhiêu. Thương nàng bấy nhiêu hay thương bấy nhiêu nàng?
Đất Vĩnh Long là đất của mỹ nữ, hoa khôi. Xuân Hương, Xuân Đào, Liệt, Oanh và một số người đẹp khác đã về với tro bụi. Những Xuân Lan, những Hồng Cúc, những Hảo-Huyền Trân, những Lucie Minh, những Pauline Nho và biết bao mỹ nhân sắc nước hương trời khác giờ xiêu lạc hà phương? Sóng xô một buổi tan khuê các, Khói dậy vài phen nát liễu bồ...
Chiều hôm đó, sau khi từ giã anh chị Tư Hón trong bịn rịn nắm nuối, một bữa cơm thân mật tại nhà Văn Chinh, gần trường Thủ Khoa Huân cũ, cho tôi cơ hội gặp lại một số cựu học sinh C.T.V.L.-N.T.-T.P.H. Có anh, có chị đã mất liên lạc với tôi từ lúc tôi rời trường năm 1953. trong bàn tiệc, Ban Văn Nghệ học trò khi xưa giờ chỉ còn Trưởng Nhi, Lê thị Lý, Nga... Vắng mặt: Nguyệt Ánh-Sơn Ca, hoàn toàn rơi vào cõi huyễn mộng tâm thần. Danh hài Nguyễn thế Hưởng nghe đâu cũng “lơ lửng” như thầy Tư Hón! Tất cả đều tan tác. Tôi nhắm mắt hồi tưởng.. Hỡi ơi một thoáng dư hương cũ, Bỗng chập chùng xô động tháng ngày!
Lê ăn Lồ…, Bò té Sông, Giác-Tướng Chệt, Sáu Trọng, hiện còn sống ở Việt Nam. Giác Chệt lái xe hơi phóng như điên, hơn cả tài xế taxi Sài Gòn. Ba Tàu Tông, Thứ-Lê Lợi, Thục-Phi Khanh, Hà Bá Xử, Bảy Bùi, Phong-Chủ Mạnh, Thoại-tiệm vàng, Nhựt-thòi lòi, hiện định cư ở California.
Đa số đồng liêu của tôi chọn hai nghề: gõ đầu trẻ và cắc bùm! Những khóa kế tiếp hình như cũng vậy. Ảnh hưởng thời cuộc. Chưa nghe nói có ai đi tu. Theo V.C. thì...có!
Về viết lách, Collège de Vinh Long có hai cây bút đã thành danh: Hồ Trường An (Nguyễn Viết Quâng) và Kiệt Tấn (Lê tấn Kiệt). Viết lai rai, có Lê tấn Lộc… Trường Nguyễn Thông và Tống Phước Hiệp có Viễn Du, Hứa Hoành (đã thành danh và đã qua đời), Võ Trung Hiền (Cao Vỵ Khanh), Võ Minh Thế, Phan Các Chiêu Hằng, Khai Nguyên v.v… Có thể còn nhiều cựu học sinh khác Viễn Du, nữa cầm bút mà tôi chưa được rõ.
Trong nhóm hướng dẫn và bảo trợ văn nghệ học sinh, các thầy N.V. Kính, N.V. Kỷ Mậu, D.V. Tường đã vĩnh viễn ra đi. Cô Nguyễn thị Sương, trước năm 1975 tôi có gặp lại ở trường Gia Long. Sau đó cô sang Pháp đoàn tụ với G.S. Trần văn Khê. Nhưng rồi không rõ vì lý do gì cô trở về V.N. sống với Quang Minh, em của Trần quang Hải, và cô con gái út tại làng Đại Học Thủ Đức cũ. Tới thăm cô, tôi nhận ra ngay người thiếu phụ son sắc, kiều diễm, có học thức, cách đây hơn năm mươi năm đã chăm sóc, hướng dẫn và...”trang điểm” (hóa trang) cho tôi lúc tôi trình diễn văn nghệ phát thưởng cuối năm học tại Miễu Quốc Công, dù cô nay đã 83 tuổi đời...
Một đoạn thơ của Phan Các Chiêu Hằng gây cho tôi nhiều xao xuyến, cơ hồ như nghe chính Phan Nguyệt Vân “tâm sự”: Thôi chào giấc mộng ngày xanh, Vầng trăng buộc cũng hóa thành hư không, Hỡi người xưa chốn nghìn trùng, Còn lên dốc núi bâng khuâng dạo đàn...
Khó khăn lắm tôi mới có thể dừng bút. Chuyện Collège de Vinhlong viết đến bao giờ mới hết, nhứt là Vĩnh Long ngày nay, tuy vẫn còn là “đất lành chim đậu” nhưng giờ đây thì “chim CÚ đậu” (chữ của Đ.K.T.)!
Không hẹn mà gặp, anh Hội trưởng Đ.K.T. và tôi đã vài phen “bước trùng nhau một ngả đường”: anh, Hiệu trưởng trường T.P.H., thối thân của Collège de Vinhlong; tôi, một trong những cựu học sinh đầu tiên của trường. Anh và tôi cũng đã “bước trùng nhau” hai lần khác: hai đứa là cựu học sinh Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho và đều đã có lần “trông coi” một khu Học Chánh. Đó là nguyên nhân “thầm kín”, riêng tư thôi thúc tôi cầm bút ghi lại một số chuyện vui buồn về trường Trung Học T.P.H.
Bên ngoài trời đang mưa, những giọt mưa thu đầu mùa, lành lạnh, ray rứt, tức tưởi. Buông bút, nâng ly, tôi xin nhắn gởi người bạn phương xa:

Tiếng mưa có não lòng tri kỷ
Thì xin một chén cũng là say
Bước khẽ cho mùa không trở giấc
Nâng niu cánh mộng kẻo mù bay..


Thôn trang Rêu Phong, Xứ Tuyết, Chớm Thu 2004

Lê Tấn Lộc


Monday, July 14, 2008

Nghĩ mệt nghỉ trong mùa hè


“Tự do!
Nhân danh ngươi thiên hạ gây ra biết bao tội ác”.
( Liberté!
Que de crimes l’on commet en ton nom!)

Dẫn nhập:

Quyết định lôi bài “phù phiếm luận” thứ 3 - viết tay- đã rũ bụi mờ từ ngăn kéo ra gõ lại, tôi chỉ mong manh hy vọng bài viết nầy đến được với người đọc. Bởi lẽ chủ đề có vẻ “lạc lỏng”, quá thời điểm trước cao trào “du lịch-áp phe” của một số khá đông người Việt xa xứ -kể cả cựu Phó Tổng Thống VNCH, Nguyễn Cao Kỳ…Nhông- trước đây xin định cư ở vùng đất tự do với tư cách “tị nạn cộng sản”.

Dù vậy, cũng xin mời quí độc giả đi ngược thời gian, sống lại không khi sôi sục mùa hè 1992, với một số quá đông chính “khứa” đột ngột xuất hiện, đăng đàn ồn ào “quậy” tối đa cho lá bài cũ rích “hoà hợp hoà giải dân tộc”, một lá bài đã khiến phe quốc gia “chết chùm” dưới tay cộng sản…Các chính khứa nầy vẫn chưa tởn chiêu bài phỉnh gạt siêu đẳng của Bắc Bộ Phủ mà chính họ đã, hoặc vô tình hoặc cố ý nối giáo cho giặc thôn tín miền Nam. Để rồi chính họ đã phải vượt biên tìm đất sống! Thế mà, ngựa quen đường cũ, chứng nào tật nấy: lúc nào họ cũng chực chờ “xin làm em nuôi” của đại ca “kách mệnh rải phóng”!

Bài viết cách đây 16 năm của tôi không thấy được ánh sáng mặt trời vì anh chủ báo nhà tôi sợ “đụng chạm” tới ông bạn “đo đỏ” Té-U của anh đang chí choé cổ võ cho lá bài đã một thời đốt cháy thành phần thứ ba -tiếng bình dân gọi là thành phần “chàng hảng”- của các đồng chí “hồng hồng” của ông ta (“chuyên viên” kách-mệnh-miệng), trước 75 đã từng “can cường” an toàn nơi hậu phương, hùng hỗ “dấn thân”(sic!) đả phá một chính thể mà các bạn ông và nhiều anh em khác, bạn tôi, đang xả thân ngoài tiền tuyến để bảo vệ thể chế tự do đó… (xin nhớ lại “Nghĩ trong một xã hội tan rã” của Thế Uyên, xuất bản trước 1975)… Để rồi sau đó cả bọn phải cụp đuôi leo lẻo chối bỏ lý tưởng chính trị cao siêu “đứng trên mọi lập trường” do chính họ chủ xướng, thậm chí còn tố cáo lẫn nhau để lập công, ngõ hầu dễ bề liếm tay những ông chủ mới, xin… chứng chỉ hạnh kiểm tốt với Bắc Bộ Phủ!

Người viết đoán trước sẽ làm phật lòng một số văn và thân hữu khi quyết định cho bài viết xa xưa nầy hồi sinh, nhưng chỉ còn biết tự nhủ mình ở trong thế chẳng đặng đừng: Tức nước vỡ bờ!..
Thôi thì cũng chỉ là…phù phiếm luận!




-LTL-
(Xứ Tuyết, mùa hè 2008)
***

Nghĩ mệt nghỉ trong mùa hè



Gần hai năm nay, trong tình trạng suy thoái toàn cầu, với nền kinh tế càng lúc càng xuống dốc trầm trọng, có một loại bi-zi-nết, chằng những liuôn luôn đứng vững mà càng ngày càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ: ngành sản xuất mũ trong cộng đồng người Việt hài ngoại.
Lý do thành công tương đối dễ dãi của ngành nghề nầy cũng dễ hiểu: Nhân công không cần khả năng chuyên môn nhiều nên lương bổng không thành vấn đề. nguyên liệu cũng không khan hiếm nên giá thành không quá cao. Trở ngại đáng kể nhất trong nghề nầy là không thể làm ăn cá thể và thầy nhiều hơn thợ. Thầy chỉ tốn nước miếng -nhiên liệu dồi dào, bất tận- và mỏi miệng. Thợ, tốn bút mực, giấy và…mỏi tay!
Đặc điểm của kỹ nghệ nắn mũ là nhà sản xuất giao hàng tận nơi -thường thì đội mũ lên đầu khách hàng luôn- hoàn toàn miễn phí; không cần biết khách có đồng ý nhận hay có vừa lòng về món hàng không: Một loại làm ăn mà chủ không thâu tiền, khách khỏi chi tiền thì…đôi bên cùng có lợi chăng?
Không! Bởi mấy cái mũ tặng phờ-ri khiến người nhận chẳng những khó chịi mà đôi khi còn bị u đầu vỡ trán, thân bại danh liệt vì…có thể bị «bề hội đồng». Và dĩ nhiên các «nạn nhân» sẽ trả đũa :
Bên cho cả quyết –và lương tâm rất yên ổn- bên bị cho phải lãnh cái mũ làm sẵn như các giá phải trả cho lối lý luận «chàng hảng», tiền hậu bất nhất của mình, thể hiện qua lượng nước bọt phun ra khi tuyên bố vun vít và lượng bút mực bôi đen hàng tấn giấy in thành sách báo.
Bên bị cho phản pháo bên cho «chụp» mũ mình, có thái độ cả vú lấp miệng em, ỷ chúng hiếp cô bằng những quan đìểm đã lỗi thời, quá bảo thủ, câu nệ, cố chấp…, phản động (réactionnaire), theo nghĩa chống tiến bộ.
Trong thế trận loạn mũ nầy, bên nào cũng tự cho mình nặng lòng với quê hương, dân tộc, đầy thiện chí và thiện ý bảo vệ tiền đồ tổ quốc. Bên thì quả quyết mình nói tiếng nói chính thống của toàn bộ kiều bào đã xa lìa quê cha đất tổ vì cộng sản. Bên lại khẳng định mình phát ngôn trung thực ước vọng thâm sâu của đa số thầm lặng trong tập thể ly hương. Có điều, trong cơn hăng say đấu trí, cả hai bên đều quên mình đều là di dân định cư nơi những miền đất lạ, nghìn trùng xa cách với quê mẹ vẫn còn nằm gọn trong mẻ lưới búa liềm cộng sản, nơi đó người dân đói rách, cơ cực hầu như chẳng hề hay biết -do sự bưng bít của nhà đương cuộc- rằng đang có cuộc chiến nước-bọt-bút-mực giữa những anh chị em thừa cơm ấm áo, mà họ có dịp nhìn qua cung cách «áo gấm về làng» của đoàn Việt kiều du lịch.

Kẻ viết bài nầy tự nhận quê mùa, dốt nát, lại thêm ấu trĩ về chính trị. Nếu không, hắn đã không ngoan ngoản vào ngồi tù cộng sản, đã chẳng lặng lẽ biệt xứ sau khi ra khỏi vòng kẽm gai cải tạo để chợt khám phá mình ra nhà tù nhỏ để bước vào nhà tù lớn nhốt cả một dân tộc. Thế nhưng, đã trót sinh ra da vàng mũi tẹt, dù là dân ngu khu đen, hắn cũng xin mạo muội góp vài ý kiến để thỉnh ý quí tiên sinh cao kiến đang lâm trận và quyết cùng nhau ăn thua đủ, đồng thời nêu lên vài thắc mắc mong quí vị giải đáp.
Trước tiên, hắn xin dành phần nhận định ai đúng ai sai cho toàn thể người Việt lưu vong trên khắp thế giới. Hắn cũng xin miễn đề cẫp tới những tay trốn quân dịch hoặc lính kiểng lính ma, những tay đã trục lợi trong chiến tranh (hầu hết đã bỏ chạy trước ngày 30.4.75 ) và hiện nay thường to mồm nhất, đòi chiến đấu tới cùng với cộng sản, cũng hăng say nhất trong chiến dịch chụp mũ những ai không đồng quan điểm với mình. Cũng miễn nói tới những tên Việt Cộng chính hiệu con nai vàng, trá hình len lỏi vào các tập thể người Việt tị nạn để thực hiện công tác tuyên vận cho CSVN.
Điều kiện tiên quyết đặt xong, hắn xin ngỏ lời với quí vị bên chiến tuyến chống cộng, mà hắn vốn dành rất nhiều thiện cảm, bởi vì hắn cùng cảnh ngộ với họ: cửa nát nhà tan, gia đình ly tán, tủi nhục sống kiếp lưu đày, có thân nhân bè bạn phơi xác trên trận địa. bỏ mình nơi rừng sâu nước độc của các lò cải tạo, rã thây trong lòng biển cả qua những chuyến vượt biển tìm tự do, v.v…Hắn hiểu họ không thể nào chịu nổi những kẻ đã có thời cùng chiến tuyến với họ, đã cùng bỏ nước ra đi vì bạo quyền, nay lại trở cờ, lăm le trích máu ăn thề với bọn người đã cưỡng chiếm quê hương xứ sở họ bằng chiêu bài xoá bỏ hận thù, xoá bỏ ranh giới quốc cộng, xù bài làm lại từ đầu…Thoạt nhìn, tưởng giải pháp chi mới mẻ, nhưng ngó kỹ lại chẳng qua là lá bài cũ rích «hoà hợp hoà giải dân tộc» lừa bịp mà cộng sản và tay sai đã đem ra «câu» mấy tay nhẹ dạ đứng ra hô hào, cổ võ dân chúng, dối gạt dư luận thế giới để trói tay chân VNCH -được mô tả như bọn diều hâu háo chiến- đem tế thần cho lá cờ đỏ sao vàng qua trung gian của thầy cúng MTGPMN. Hắn cũng thông cảm cơn phẫn nộ của họ và nghĩ rằng phản ứng dữ dội của họ là hợp lý hợp tình.
Tuy nhiên hắn muốn hỏi nhóm chống cộng sát ván nầy vài điều:
-Quí vị có chủ trương chỉ duy nhứt dùng bạo lực để lật đổ chế độ cộng sản hay không? Giả thử câu trả lời là có và quí vị đã thành công trong công cuộc giải thoát đất nước khỏi gông cùm cộng sản, quí vị có tập trung những ai đã từng phục vụ dưới chế độ XHCNVN vào trại cải tạo, như CS đã làm không? Nếu có, quí vị có ý thức CSBV đã cai trị phần đất tự do trước đây của VNCH đã bao nhiêu chục năm rồi chưa? Ai sẽ phải bị đưa đi cải tạo cùng với đám tàn dư CS đây, nếu không là thân nhân của chúng ta đã dây mơ rễ má với chế độ đương thời? Và ai sẽ «thăm nuôi» đám tân cải tạo viên nầy? Cũng lại là thân nhân của thân nhân chúng ta còn kẹt lại ở VN, đúng không? Như vậy, chúng ta sẽ tái diễn cái màn nhà tù nhỏ trong nhà tù lớn? Đó phải chăng là giải pháp hoà bình vĩnh cửu cho VN? Hay lại chế độ nầy lật đổ chế độ khác, chế độ khác lại lật đổ chế độ khác nữa: một chuỗi cải tạo nối liền cải tạo? Cải tạo triền miên cho tới khi tuyệt giống luôn chăng?
-Quí vị có nghĩ chống cộng là phải nhắm mắt nhắm mũi chống, xây pháo đài kiên cố bảo toàn lực lượng, chặc đứt mọi liên lạc với những ai không đồng quan điểm chống cộng triệt để với mình, là không thức thời trước những chuyển biến mới mẻ trên thế giới, kiểu như con đà điểu vùi đầu trong đống cát trốn tránh sự thật, như con ngựa nghe hơi cọp, chúi đầu vào bụi cây phóng hai chân sau đá túi bụi mà không cần biết có đá trúng cọp hay trúng đồng loại chăng?
-Cho tới nay, CSVN vẫn còn bị cô lập vì họ cuồng tín, giáo điều, ngoan cố. Quí vị có nghĩ, với thái độ khép kín, vạch vòng rào chỉ đạo tư tưởng. nhằm «làm sạch» hàng ngũ chống cộng trong tập thể di dân, đẩy các thành phần «lừng khừng», «ba phải» mà quí vị cho là «đoàn tuyên vận» làm lợi cho CS ra khỏi vòng rào phòng thủ, quí vị sẽ dần dần tự cô lập chăng? Đó là chưa kể thái độ bài xích quá quắc của quí vị có thể xô hẳn họ về phía tuyến đối nghịch. Chúng ta đã chửi CS «độc quyền yêu nước», lẽ nào chúng ta lại muốn «độc quyền cứu nước» sao?
Rõ ràng những cuộc đấu khẩu, bút chiến trong tập thể ly hương được CS thứ thiệt vỗ tay khoái trá đốc xúi. Họ thừa dịp chửi quí vị «già nua, lẩm cẩm, sắt máu...»; đồng thời đóng dấu ấn «tiến bộ, yêu nước» trên cái mũ mà quí vị đã chụp lên đầu những người trước đây đã có thời là chiến hữu của quí vị (mà tới nay chưa chắc họ đã rời bỏ hàng ngũ tranh đấu cho tự do). Và cái dấu ấn đó là bản án tử hình cho những người đôi khi chỉ là nạn nhân của những tị hiềm nhỏ nhen, tranh chấp cá nhân, bởi họ quả thực bị kẹt giữa hai lằn đạn không lối thoát: Trở về với cộng đồng người Việt tị nạn thì bị xua đuổi như hủi, ngã theo CS thì cũng sẽ tiêu tùng sau khi bị chúng khai thác. Chụp mũ cho những ai không đồng chính kiến với mình -lắm lúc chỉ đơn giản vì mình không ưa họ thôi- vốn là một hiện tượng quá phổ quát hiện nay, một thứ monnaie courante!
Có bao giờ hai bên chụp và bị chụp nhận ra, trong trận chiến tung mũ nầy cộng sản mới thực sự là tay chủ động và trục lợi tối đa: mượn tay bên bị chụp đánh quí vị và mượn tay quí vị đập những người «lính đặc công tự nguyện» nầy (dưới cái nhìn của CS) để khỏi bận tâm thanh toán họ sau đó. Một viên đạn trúng hai con chim. Kết quả y như CS dự kiến: hàng ngũ chống cộng rối bời, phân hoá…Gà một chuồng bôi mặt đá nhau. Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi!
Để tạm kết phần sơ vấn, xin hỏi quí vị có bao giờ thấy phe CS chụp mũ nhau là «bọn quốc gia» chưa? Có bao giờ họ bôi phân trát trấu nhau kịch liệt như phía VNCH chưa?
*
Đến đây, hắn xin góp ý với phe tự coi là «đứng trên» mọi thù hằn dai dẳng giữa hai bên quốc-cộng. Đồng ý, oán thù nên cởi, không nên buộc. Thế nhưng xin hỏi quí ngài có thử «nhóng ý» CS xem họ đã sẵn sàng hạ bảng XHCN xuống chưa?
Tình thật, hắn không thể nào không nghĩ quí vị đang làm một việc hết sức ngộ nghĩnh và ngây thơ -có thể cũng hết sức«dễ thương»- của đám «đâm sau lưng chiến sĩ» trước đây, khi cuộc chiến đã tới hồi gay go đối với người lính cộng hoà đang khốn đốn vì tiềm năng chiến đấu sút giảm thê thảm (do đồng minh Hoa Kỳ đơn phương hạn chế tiếp vận vũ khí, chiến cụ, đạn dược…) trước hoả lực kinh khiếp của đội quân Bắc phương xâm lược (được đồng minh Liên Xô cùng các chư hầu trang bị càng lúc càng tói tân, hùng hậu) đang tiến như vũ bão, với quyết tâm nuốt trọn miền Nam Việt Nam. Điển hình là nhóm Phật giáo, Công giáo «yêu nước», không ngừng xách động chống phá chính quyền thời đó, đầu độc dư luận trong và ngoài nước. Hắn không thể không nghĩ quí vị là thối thân của bà vải Huỳnh Liên, bà già lẻo mép Ngô Bá Thành, sanh viên Huỳnh Tấn Mẫm, học sanh Lê Văn Nuôi (hai chuyên viên xách động xuống đường), đám chính khứa già hàm Vũ Văn Mẫu, Trần Ngọc Liễng, Lý Quí Chung, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Ngọc Cứ…, đám thầy giáo «chung thân bất mãn» Lý Chánh Trung và đám trí thức làm-dáng-thiên-tả-chuyên-viên-mỵ-dân, Cha «nội» Huỳnh Công Minh -linh mục made in nón cối- người đã ngang nhiên đổi phương châm muôn thuở của người Ki tô hữu «Mến Chúa, Yêu người» thành «kính Chúa, yêu nước»…(XHCN!); và còm-pa-nhi linh-mục-quốc-doanh-chuyên-viên-dối-gạt-lọc-lừa tín hữu. Chưa kể «chất xám» ngoại hạng lãnh đạo công cuộc khuấy phá tinh vi hàng ngũ quốc gia: Siêu-Ngồi-Trên-Thiết-Trí-Quanh…các cuộc «đi đêm» móc nối với các đồng chí đỏ!
Các tiên sanh nầy cũng đã một thời lớn họng kêu gào hoà hợp hoà giải dân tộc, tự phong mình là «thành phần thứ ba». Và câu trả lời đã tức khắc đến với họ ngày 30 tháng 4 năm 1975! Vì tự cho mình đứng trên hai lập trường đối nghịch -thành phần thứ 3 mà!- nên họ không có lập trường khi cuộc chiến ngã ngũ, có kẻ thắng người thua. Thật quá «lô-gích », CS cho họ đứng ngoài cuộc chơi luôn! Và cái mà họ khan cổ la lối -hoà hợp hoà giải dân tộc- đã được kẻ chiến thắng vin vào để buộc tất cả phải hợp tấu tôn vinh XHCX!
Hắn muốn hỏi quí vị, nếu giải pháp «xù bài làm lại từ đầu» có cơ thành tựu -hắn nghi lắm, vì hiệp định Paris đã được các cường quốc hỗ trợ bằng chữ ký bảo đảm của mình, cũng có chủ trương hoà hợp hoà giải dân tộc đó chứ, nhưng vẫn có ngày 30.4.75, với hằng hà sa số trại cải tạo như thường! Đặt giả thuyết CS «ngoan hiền» nhường ngai cho quí vị, phía VNCH cũng «khoan nhượng» để yên cho quí vị cai trị dân, quí vị sẽ dựa vào thế lực nào đây để cầm quyền? Phe CS dĩ nhiên vẫn còn rất đông, rất mạnh. Phía VNCH cũng không phải là một lực lượng không đáng kể. Họ khó có thể dễ dàng quên Hoàng Phủ Ngọc Tường với mồ chôn tập thể ở Huế trong Tết Mậu Thân, nghĩa trang Quân Đội, Mạc Đỉnh Chi và một số nghĩa trang khác bị san bằng…
Liệu quí vị có dám tái lập những kỳ đài ở những nơi đã bị xoá hết dấu vết kể trên, như những di tích lịch sử chăng? Nếu có làm, cũng là lẽ công bằng theo chính sách hoà hợp hoà giải dân tộc của quí vị, bởi vì phía cộng sản đã có và chắc chắn vẫn duy trì các nghĩa trang, các đài «liệt sĩ», lăng Bác, v.v…Hay, nếu đã nhất định xù bài làm lại từ đầu quí vị có dám quyết liệt san bằng hết mọi chứng tích còn mang dấu vết của «cuộc chiến tương tàn» từ 1945 tới nay chăng?
Dựa trên bài học lịch sử hắn nghĩ, khi muốn hoà giải hai phe đối nghịch, nếu là hai nước lâm chiến, nước đứng ra hoà giải phải được cả hai nước liên hệ chấp thuận. Nếu là hai phe lâm chiến trong một nước, người hoà giải cũng phải được hai phe đồng ý ủy nhiệm. Vậy, xin hỏi quí vị đã được cả hai phe quốc-cộng công khai hay bí mật ủy nhiệm chưa? Nếu câu trả lời là không thì hắn lại liên tưởng tới trò hề Dương Văn Minh trước đây : Vị «tổng thống cuối cùng» của VNCH cũng đã có «sáng kiến» đứng trên mọi lập trường đối chọi để kêu gọi hoà giải. Dẫu đang ngồi trong dinh Độc Lập, trên nóc treo Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, ngài tông thống siêu lập trường rốt cuộc đã cầm cờ trắng nghênh đón phía bên kia! Bởi vậy, hắn e ngại khi thấy trong hàng ngũ quí vị có người chủ trương bôi cả cờ đỏ sao vàng lẫn cờ vàng ba sọc đỏ!
Cờ đỏ sao vàng đang ngang nhiên phất phới ở nội địa và không có dấu hiệu nào khả dĩ cho thấy nó sẽ yên lành được hạ xuống. Dĩ nhiên, quí vị có thể hư vô hoá nó trong tâm tưởng, nhưng muốn thực sự bôi xoá nó, chắc chắn quí vị cũng phải thổ huyết đôi ba chậu, vì còn rất nhiều tay súng bảo vệ nó.
Với cờ vàng ba sọc đỏ, cố nhiên quí vị có thể xoá bỏ trong tâm trí; nhưng cũng rất khó, bởi hầu hết quí vị đã sinh sống ở một môi trường mà nó đã có thời tung bay rạng rỡ. Nhưng muốn cổ súy bôi xoá nó thực sự, quí vị phải tự chế đừng tới tham dự các sinh hoạt cộng đồng của người Việt hải ngoại -nơi nó luôn luôn được trân quí ngước chào nghiêm chỉnh- phải vận dụng tối đa tim óc mình xoá nhòa trí nhớ để tẩy sạch hoài niệm về lá quốc kỳ đã gắn chặt với những nỗi vui buồn của chúng ta, những người đứng bên hàng ngũ bênh vực tự do. CS đã san bằng hay đào mả những tử sĩ thân nhân, bè bạn chúng ta đã vĩnh viễn nằm xuống trên phần đất VNCH trước đây. Lẽ nào quí vị đan tâm lột bỏ lá cờ vàng ba sọc đỏ đã bó thây hoặc bao phủ quan tài họ, xé cho tan tành để đẹp lòng người anh em phía bên kia, để dọn đường cho một giải pháp hoà giải mà hắn thoáng thấy chung cuộc quí vị sẽ lại cầm cờ trắng đứng bên ngoài chơi như tổng-thống-chợ-chiều DVMinh! Trò chơi có đáng thắp đèn cầy chăng? (Le jeu en vaut-il la chandelle?)

Bởi các lẽ trên, theo ngu ý, trong tuơng lai, nếu có một giải pháp nào cho nước Việt Nam đỡ nghèo khổ, đói rách hơn, giải pháp đó phải thoát thai từ việc hai phía quốc-cộng khởi đầu ngồi lại với nhau trong hai tư thế, với hai lá quốc kỳ tiêu biểu cho lý tưởng mà họ đã theo đuổi và tranh đấu bấy lâu nay.
Từ đó, người hoà giải sẽ đóng vai trò xoa dịu những va chạm chắc chắn sẽ có giữa hai quan điểm giải quyết vấn đề cho một nước Việt Nam dung hoà mọi khuynh hướng chính trị. Cũng từ đó, một quốc dân đại hội mới có đủ thẩm quyền hoá giải hai lá cờ đối nghịch thành một quốc kỳ duy nhất cho một Việt Nam thực sự hoà bình, thịnh vượng, tự do. dân chủ…
Dĩ nhiên, đây chỉ là ước mơ thật bình thường của người viết bài nầy, không nhất thiết «độc đáo, duy nhất đúng» và chắc chắn mang nhiều sắc thái không tưởng (utopique), so với hiện trạng nước nhà.

*

Chót hết, xin nêu hai câu hỏi dưới đây với hai phe đang quần thảo:
1- Quí vị chủ xướng tàn sát tới tên CS cuối cùng? Liệu quí vị có bỏ chạy trước như ngày 30.4.75 nữa chăng? Và quí vị có chuẩn bị vùng đất nào khác để tái định cư những ai, vì theo quí vị, sẽ kẹt lại VN lần nữa chăng?
2- Quí ngài mời gọi mọi người hoà hợp hoà giải với bên kia trong tình anh em cốt nhục, cùng một cội nguồn Cha-Lạc-Long-Quân-Mẹ-Âu-Cơ ? Nếu thất bại lần nầy, lần tới quí ngài định sẽ hô hào một cuộc phiêu lưu chính trị nào nữa đây? Và phiêu lưu trên phần đất nào, quê nhà hay quê người?
Trong khi chờ đợi được giải đáp, hắn hi vọng hai bên sẽ nghĩ đã tới lúc ngồi lại đối thoại với nhau, hơn là chụp mũ loạn xà ngầu, để thông hiểu thêm lập trường của nhau, trước khi nắm tay nhau đến nói chuyện với cộng sản.
Ngoại trừ những tên chống cộng chuyên nghiệp -chống cộng như một loại job- những tên hoạt đầu chính trị (đi hàng hai như một dịch vụ đầu tư), hắn không bao giờ phủ nhận thiện ý của quí vị, quí ngài, vốn tha thiết với quê hương, xã tắc. Thế nhưng, đôi khi hắn tưởng cần nhắc lại câu nói rất thường tình của người xưa để tự cảnh tỉnh: «Địa ngục đầy rẫy ý hướng tốt» (L’enfer est pavé de bonnes intentions!)…

Thôn trang Đổ-Lá-Đầy-Ấp-Mơ, Xứ Tuyết
-Lê Tấn Lộc-

Sunday, July 13, 2008

Vô tình sai sót hay cố ý bóp méo?


Thay lời phi lộ:

Tôi chưa được may mắn gặp mặt hay trò chuyện với nhà văn Thế Uyên.
Cách đây 17 năm, nhân dịp cộng tác với nguyệt san Sóng ở Toronto và sau đó phụ trách Tổng Thư Ký giúp anh Nguyễn Tăng Chương, chủ nhiệm kiêm chủ bút, tôi có dịp liên lạc một vài lần với TU qua mục thư tín của tờ báo, vì thỉnh thoảng TU cũng có viết cho ông bạn NTChương của mình.
Năm 1992, thấy TU ba hoa chích choè quá mức, tôi có viết tay một bài dưới đây gửi cho anh NTChương để minh định lập trường của tờ báo trước những bài viết càng lúc càng cường điệu của TU đả phá vô tội vạ các cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Nhưng anh Chương từ chối đánh máy để đăng trên Sóng. Lý do: tôi không thể công kích một cây bút đang công tác với báo nhà…Bài viết được xếp vào ngăn kéo. Dẫu sao TU cũng là chỗ thân tình với ông chủ báo của tôi!
Tôi giữ im lặng mãi đến ngày hôm nay…Cho tới khi tình cờ đọc được một bài viết mới đây của TU trên Talawas, ngày 25.6.2008 (Đọc “Can trường trong chiến bại” của Hồ Văn Kỳ Thoại)…Cây muốn lặng mà gió chẳng đừng! Nhà văn nhớn Thế Uyên quả thật rất can trường -nơi hậu cứ thôi!- “quí trọng những giọt nước mắt của tướng Kỳ” -những giọt nước mắt “cương quyết tử thủ, ở lại quê hương suốt đời để ăn mấm tôm” chẳng? Để rồi…vài tiếng đồng hồ sau bay ra đệ thất hạm đội HK trực chỉ đảo Guam để…tiếp tục vinh danh mắm tôm!..
Tôi không có ý định đi sâu vào bài viết nầy của nhà văn nhớn. Bởi vì lần nầy tôi chỉ muốn đưa bài viết của tôi bị xếp vào ngăn kéo năm xưa, cho độc giả thử xem có còn ứng dụng với siêu [nhân] vật Thế Uyên 2008 nữa chăng? ( -LTL, hè 2008-)
-o-o-o-


Phù phiếm luận (1)

Vô tình sai sót
hay
Cố ý bóp méo?

Nhân đọc mấy bài viết của nhà văn Thế Uyên đăng trên tạp chí Văn Học (số 72 và 73, tháng 2 & 3/1992, số 75, tháng 7/1992) và Hợp Lưu (số 5, tháng 6/1992), tôi xin mạn phép nêu lên một vài thắc mắc cùng góp ý với tác giả:

1-Trong mục Điểm sách (V.H số 72-73, trang 176), nhà văn Thế Uyên mở đầu phần Văn chương tải tình tại hải ngoại như sau:”Trong những năm đầu của cuộc sống tị nạn tại nước ngoài, những tiêu chuẩn về văn hoá, văn học được đưa ra thường là những tiêu chuẩn của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà cũ. Hai nét chính của tiêu chuẩn nầy là:
-Phải có tính chống cộng
-Không được viết truyện đồi trụy
Xin hỏi nhà văn: Ban Biên Tập của các tạp chí mà ông đã cộng tác (thí dụ như Văn, Văn Học, ở Hoa Kỳ, Sóng, ở Canada chẳng hạn) có nằm trong nhóm chủ trương áp dụng “những tiêu chuẩn của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà cũ” chăng? Nếu câu trả lời là có, thì xin tạm kết luận:
-Nhận xét tiền nghiệm của ông, bao quát đúng tương đối.
-Ông tự mâu thuẫn khi gửi bài đăng trên các tạp chí nêu trên, vì ông đả phá hai tiêu chuẩn của Chính quyền VNCH cũ, mà ông đã chụp lên đầu đa số những người cầm bút ở thời điểm đó, hầu như ám chỉ họ tiếp tục làm “bồi bút” cho VNCH. Đó là chưa kể, lúc bấy giờ ông chưa có mặt ở hải ngoại. Căn cứ vào đâu, ông đưa ra lời phê phán hàm hồ, vơ đũa cả nắm thế?

2- Cũng trong mục Điểm sách (V.H, số 75, trang 86), ông viết: “ (…) trong khi Thế Uyên viết đủ loại, từ sáng tác tới biên khảo, dịch thuật và lập trường chính trị thì tả khuynh”. Tôi cảm phục ông can đảm xác định lập trường rõ rệt, dù tôi biết cái “mốt làm dáng” (snobisme) muôn thuở của người “trí thức” (hiểu theo nghĩa nôm na như người có ăn học) là tự xưng thiên tả. Nhưng tôi tin ông thực tâm thiên tả, trong nghĩa rất tốt của nó: luôn đứng về phía kẻ cô thế bị hiếp đáp, luôn bênh vực sự công chính. Tuy vậy, từ thiên tả công trực đến thiên vị, thiên lệch, hàm chứa khuynh hướng thầm kín xuyên tạc theo định kiến (tendancieux) chỉ cần một bước nhỏ. Tôi sẽ đề cập đến sự kiện nầy sau.
Tạm thời xin nhắc nhở ông, trong nhóm tự coi là tả khuynh tả ở Việt Nam, trước 30 tháng 4/1975, có một trong “những người công giáo bạn tôi” của ông rất đáng được xướng danh ra đây: Giáo sư Lý Chánh Trung, tác giả đoạn văn bất hủ đăng trên báo Tin Sáng: “Cải tạo viên rất thoải mái như đang nghỉ hè trong trại học tập: ăn no(thịt gà, thịt bò), ngủ kỹ (chăn nệm đầy đủ) để dưỡng sức đánh bóng chuyền tối ngày”!!!
Tôi đã nằm lòng áng văn lịch sử nầy khi ngồi tù cải tạo. Và từ đó, với tôi, ông giáo sư triết lý nầy đã trở thành giáo sư chết lý. Sự lệch lạc trí tuệ lừng lẫy của con người trí thức-cầm bút-“triết gia” thời danh nầy đã khiến ông ta trông gà hoá cuốc, nhìn bo bo ra ca-via, sắn khoai ra đùi gà, bít-tết…Để rồi trong cơn mê sảng về những chiều cao cách mạng (nếu tôi không lầm, ông đã viết xong luận án tiến sĩ “Cách Mạng và Hành Động”, dự tính trình ở đại học Louvain, Bỉ), ông phát huy cao độ “óc sáng tạo của nhân dân ta”, sáng tác những dòng chữ ngà ngọc để đời, ca ngợi tính nhân đạo của chế độ cải tạo. Một điệp khúc mà cho tới nay thỉnh thoảng vẫn còn được vài cây bút thành danh ở hải ngoại nhơi đi nhơi lại…
Một Hàn Tín lòn trôn còn có thể vin vào cớ mưu đồ đại sự -bài bản quen thuộc của con người chính trị. Nhưng con người cầm bút không thể hành sử như vậy. Ông TU hãy thử hình dung một Nhất Linh, con người của lịch sử, của dân tộc, nếu lúc còn sống bẻ cong ngòi bút để ca ngợi một chế độ tham tàn, hung bạo nào đó thì ông, Thế Uyên, là người thân tộc liệu có thể chấp nhận được chăng, nói chi tới độc giả!

3- Trong bài Vài nhận xét về tương quan giữa cộng đồng Việt Nam hải ngoại và nội địa (H.L, số 5, trang 4, 5), ông viết: “Nhiều báo chí, đặc biệt là báo chợ, do thành phần chống cộng bảo thủ, kiểu VNCH trước kia, nắm giữ. Những báo chí này thường có khuynh hướng bóp méo sự thực cho vừa ước mơ chính trị của mình (…) Cũng bởi thế, nếu người ngoại quốc chỉ căn cứ vào báo chí Việt Nam hải ngoại loại đó thôi, dễ có cái cảm tưởng là tất cả đều là những chiến sĩ chống cộng can trường (không hề có một ai bỏ chạy năm 75 cả chẳng hạn), tất cả đều “thề phanh thây uống máu quân thù cộng phỉ” cương quyết bao vây kinh tế cộng sản (…)!”
Xin góp ý với ông T.U vài điều:

a-Tôi để ý ông ưa hậm hực lặp đi lặp lại, qua rất nhiều bài viết, luận điệu thành phần chống cộng bảo thủ, kiểu VNCH trước kia. Xin tôn trọng tự do tư tưởng của ông. Nhưng, sự ngay thẳng trí tuệ còn có mặt nữa chăng, nếu cái “khuynh hướng bóp méo hiện thực cho vừa ước mơ chính trị của mình” dẫn dắt ngòi bút mình lấy râu ông nầy cắm cằm bà kia để gán ghép nhầm đối tượng quyết tâm “thề phanh thây uống máu quân thù cộng phỉ” ?
-Xin nhắc ông, sự kiện lịch sử phải được ưu tiên tôn trọng trước khi diễn giải hay bình luận sự kiện đó. Thí dụ: không ai có thể sửa đổi hay chối cãi được (kể cả những ai muốn bênh vực Bắc Hàn) là trong chiến tranh Triều Tiên 1950, Bắc Hàn đã xua quân tràn qua vĩ tuyến 38 trước, tấn công Nam Hàn. Còn ý nghĩa của sự việc đó ra sao (Bắc Hàn muốn “giải phóng” Nam Hàn, hay bị Nam Hàn khiêu khích chẳng hạn) lại là một chuyện khác.
-Về vĩ tuyến 17 ở Việt Nam, xin để ông tự suy diễn. Nhưng, lại xin nhắc ông nguyên văn bản quốc ca của Việt Minh trước đây là: “Thề phanh thây uống máu quân thù (không có hai chữ cộng phỉ, dĩ nhiên!), Thắng gian lao đoàn Việt lập chiến khu (v.v…)”
Trong miền Nam, lúc tôi 10 tuổi, đi tản cư theo Việt Minh trốn Pháp, trẻ con tụi tôi đã hát, dưới sự điều khiển của cán bộ tuyên truyền của VM như sau: “Thề ăn gan uống máu quân thù (…) Người Việt Nam nuôi máu căm hờn. Tiến mau ra sa trường! Tiến lên cùng tiến lên! (…)” v.v…và v.v…
Không rõ có ai nghe -riêng tôi thì chưa hề- bất cứ người nào trong hàng ngũ Quân Đội Quốc Gia Việt Nam trước đây và Quân Lực VNCH sau nầy hát bản quốc thiều bằng những lời ca sắt máu như thế chưa. Ông có nghe chăng? Bản thân ông có lần nào hát như vậy, với tư cách người sĩ quan QLVNCH chưa?

b- Về điểm “nhất định là giữ vững quyết tâm không bước chân về Việt Nam, ngày nào còn có chế độ cộng sản…” và lý luận ông đưa ra: “Cho mấy ổng bả chết luôn, ai bảo không chịu chạy cho lẹ ra nước ngoài. Kẹt lại thì ráng mà chịu!”, xin trích gửi ông đọan văn sau đây của một cây bút quen thuộc đã “thành danh” (nhận định của chính ông, VH số 72-73, trang 178), vốn cũng có “cha mẹ già, hấp hối, cầu mong nhìn thấy mặt con lần chót…”, để ông thấy đôi khi còn nhiều lý do khác hơn lý do đơn giản mà ông đưa ra, suy nghĩ dùm thiên hạ: “Riêng tôi, nếu về nước để nhìn thấy đồng bào lầm than, trong lúc cán bộ phè phỡn thì tôi không về. Trong chế độ tư bản, người bóc lột người. Trong chế độ cộng sản thì ngược lại!”
Mới đây, tôi nghe hình như ông đã “vinh quang” trở về Việt Nam theo lời mời của nhà cầm quyền Hà Nội để thực hiện một chuyến “công du” 46 ngày, dùng tài hùng biện thuyết trình các đề tài có tính cách thời sự, chính trị “nóng bỏng”, mà ông đã từng quảng bá trên sách báo hải ngoại -những đề tài đã một thời gây sóng gió cho 19 hội đoàn ở Seattle, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ và gây phản ứng ầm ỉ từ một số đông văn hữu khắp nơi ở hải ngoại.
Về lại Hoa Kỳ, hình như ông đang tập trung toàn bộ các lời tuyên bố vung vít thuộc loại “nẩy lửa” để chuẩn bị in thành sách và để trả lời hai cuộc phỏng vấn của hai tạp chí tại California, nội dung xoay quanh chuyến đi du thuyết (chứ không phải du lịch) “Bốn mươi sáu ngày đêm ở Việt Nam” của ông.
Sắp tới, hình như ông sẽ tiếp tục cuộc du thuyết “giải độc dư luận” ở Pháp, nhân tiện bắt tay với nhóm chủ trương hoà hợp hoà giải dân tộc bên đó.
Tôi nói hình như, nhưng xin ông hiểu cho đó là cách nói dè dặt của người cẩn trọng, dù các sự kiện nói trên chắc chắn đã xảy ra và sẽ diễn tiến đúng trăm phần trăm, ngoài trừ trường hợp bất khả kháng như thiên tai bất ngờ, ông nhuốm bệnh ngặt nghèo (tôi không có ý trù ẻo ông đâu nhé, chỉ dự trù các giả thuyết khả dĩ)…
Chờ xem ông sẽ sáng tác những áng văn “để đời” nào nữa đây trong những ngày tới.

c- Ông viết tiếp: “Các tờ báo bảo thủ hải ngoại với các ông già, cựu lính cựu viên chức VNCH, dù cố gắng đến mấy, cũng chẳng thể cản nổi đời sống thực sự (ông nhấn mạnh bằng chữ in nghiêng) của thành phần đa số trong cộng đồng. Những tâm tư nguyện vọng, những điều muốn làm, vẫn cứ biểu lộ qua các báo chí cấp tiến, vẫn cứ được thực hiện trên thực tế” (HL, số 5, trang 5). Không thấy ông chỉ đích danh “các tờ báo bảo thủ”, “các báo chí cấp tiến”…
Riêng tôi -và tôi nghĩ ông cũng vậy- chắc chẳng nỡ coi “mấy ông đồ” (Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Tăng Chương chẳng hạn) như các ông già cựu lính cựu viên chức VNCH…, dù trên thực tế họ có đi lính, có làm công chức cho chế độ cũ, với đầy đủ “mấy món ăn chơi” mà họ phải nếm qua trong chế độ mới, như biết bao người khác đồng cảnh ngộ “kẹt” lại Việt Nam, trong đó có ông và tôi.
Nói phớt qua rồi bỏ, tôi nhận thấy qua các tiểu luận kinh tế, chính trị v.v…ông quả can đảm, dám nghĩ khác hơn đám đông bảo thủ và viết ra điều mà ông cho là tiếng nói của đa số thầm lặng. Tôi chỉ hơi thắc mắc về những chữ ông dùng: Cùng là người Việt Nam mặc quân phục; nhưng nói tới VNCH ông kêu “lính”(có ngụ ý “lính đánh thuê” chăng?); đề cập tới CHXHCNVN thì ông trân trọng gọi “bộ đội”. Và còn nhiều điểm thiên vị khác nữa, kể sao cho xiết. Nhưng tôi không bao giờ đồng ý với những ai bực tức chụp cho ông cái mũ cộng sản, dù trên thực tế, căn cứ trên toàn bộ lý luận của ông, họ không hoàn toàn vô lý khi hồ nghi như vậy. Bởi tôi vẫn còn ngây thơ tin tưởng “những ai đã dự phần vào cuộc chiến bảo vệ tự do, đã kẹt lại ở Việt Nam sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã đi tù cộng sản sẽ khó có thể trở thành cộng sản”.
Có điều tôi vẫn thấy thán phục nhà văn Dương Thu Hương hơn ông nhiều, ở chỗ bà dám thẳng thắn xác nhận mình vẫn là con người cộng sản, qua bản Tự bạch. Sau đó, tôi còn kính nể bà hơn nữa, qua Thư ngỏ gửi bà Thụy Khuê. Và nhất là qua Thư cho một bạn văn. Tôi thấy bà can đảm chấp nhận sửa sai. Tôi thực sự ngã nón chào bà khi đọc đoạn kết lá thư đó: “Mặc dù tôi vẫn biết rằng tính chất phong kiến dã man Châu Á đã làm biến dạng cơ cấu xã hội kiểu dân chủ tư sản ở miền Nam, song le với nguyên tắc cốt tủy tam quyền phân lập, nó vẫn còn văn minh gấp bội xã hội chuyên chính vô sản miền Bắc. Vậy thì ngôi sao chiếu mạng tôi đã định đoạt rồi, tôi an nhiên chấp nhận” (HL, số 5, trang 39).
Liệu ông có đủ can trường đi nốt đoạn đường ông đã tự vạch ra chăng? “Làm nhà văn VN đâu có lợi lộc gì nhiều về tiền bạc, về quyền bính lại càng không nữa. Đã thế văn chương mình viết ra lại hay gây tai nạn, đôi khi làm chết người viết như không”(Thề Uyên, Nghĩ trong mùa xuân, nxb Xuân Thu 1992, trang 166).
Trước mắt, liệu ông có dám khẳng định trước sau gì mình vẫn còn đứng về phía những người bênh vực tự do (như Dương Thu Hương quả quyết mình vẫn còn là người cộng sản, cho dù là người cộng sản thất vọng ê chề về đảng cộng sản), cởi mở đón nhận những góp ý của thân hữu để điều chỉnh lại tầm bắn và nhất là để nhận ra -như Dương Thu Hương ở đoạn kết bài viết dẫn thượng- đâu là cốt lõi của dân chủ, tự do?

d- Tiếp tục bài tiểu luận, ông viết:” Dĩ nhiên một khi chính quyền Mỹ chấm dứt phong toả (…), do tương đồng về quyền lợi, thành phần tiểu tư sản mới (nhấn mạnh: do vốn đầu tư của hải ngoại mà xuất hiện và tồn tại) sẽ liên kết với thành phần tư sản và tiểu tư sản đỏ (mà vốn liếng đầu tư xuất phát từ tham ô, hối mại quyền thế) để tạo thành một thành phần tiểu tư sản vững mạnh trong nội địa. Chế độ cộng sản có chấm dứt sớm hay muộn, tùy thuộc rất nhiều ở thành phần tiểu tư sản nầy: họ lớn mạnh thì một chế độ dân chủ kiểu đa nguyên lại càng dễ thành hình” (HL, số 5, trang 8).
Nếu viễn ảnh do ông phát họa sẽ thành sự thật trong nay mai thì… quả thật nước Việt Nam sẽ còn khốn nạn dài dài…Bà con thử nghĩ, từ sự “ăn nằm” giữa vốn đầu tư của hải ngoại với vốn liếng của tham ô, hối mại quyền thế, một quái thai kiểu nào sẽ tượng hình đây?
Làm chính trị phải chăng đồng nghĩa với “làm ăn”, hở nhà văn Thế Uyên?
***
Tôi minh định đây không phải là một bản cáo trạng hài tội ai hết. Lại càng không nằm trong chiều hướng mở màn cho một cuộc bút chiến sôi nổi nhưng vô bổ. Lẽ ra tôi nên góp ý bằng thư riêng với nhà văn TU. Nhưng tôi không may mắn có liên hệ thân tình với tác giả các bài viết dẫn thượng, để có thể tự cho phép trao đổi thư từ với đương sự.
Tôi rất đau lòng viết ra những điều có thể làm phật lòng một người cầm bút mà tôi vốn rất có thiện cảm (dù chưa một lần giáp mặt) trước 1975. Thế nhưng đôi lúc phải nhận chịu hậu quả của một chân lý rất sơ đẳng: thuốc đắng đả tật, lời thật mất lòng. Hy vọng nhà văn TU thấu hiểu: Vấn đề không phải ở chỗ nói hay không nói sự thật, mà ở chỗ có dám nói hết sự thật chăng.
Cố nhiên, khi nêu lên nghi vấn nhà văn Thế Uyên có nhiều điểm thiên vị, thiên lệch, tôi vẫn không quên chính mình có thể cũng có nhiều chỗ không hoàn toàn vô tư lắm. Bởi tôi vẫn còn nhớ lời của ông tổ chủ nghĩa xã hội khoa học, Karl Marx: “Không thể có một khách quan tính thực sự khách quan; chỉ có thể có một khách quan tính chủ quan” (Bản dịch từ Đức ngữ sang Pháp ngữ như sau: Il n’y a pas d’objectivité vraiment objective; il n’y a qu’une objectivité subjective).
Dĩ nhiên, trung lập hay lắm (trên thực tế làm sao có thể hoàn toàn trung lập?); nhưng trung lập vẫn còn là một xa xí phẩm ngoài tầm tay của đám đông quần chúng ở các nước trên đà phát triển. Tuyệt đại đa số, sau rốt, vẫn phải có sự lựa chọn, kể cả sự lựa chọn không chọn lựa gì hết!
Nghĩ cho cùng: “Không phải ai cũng có may mắn làm dân Thụy Sĩ” (Tout le monde n’a pas la chance d’être Suisse. J-P Sartre). Đúng không, nhà văn Thế Uyên?

Thôn trang Đổ-Lá-Đầy-Ấp-Mơ, Xứ Tuyết
-Lê Tấn Lộc-

Câu chuyện dưới cờ

Lời mở đầu:

Mười sáu năm trước đây, tôi có viết một bài phản bác bài phỏng vấn một cựu trung tá QLVNCH, được đăng tải trên tạp chí Hợp Lưu ở Hoa Kỳ. Vị sĩ quan cao cấp nầy kêu gọi dẹp bỏ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ. Bài phản bác nầy không được Hợp Lưu đăng. Lại thêm một bài “phù phiếm luận” thứ 2 của tôi bị bỏ vào ngăn kéo, sau khi bài phù phiếm luận 1 phản bác nhà văn Thế Uyên -cũng là một cựu sĩ quan QLVNCH- bị chính tờ nguyệt san mà tôi là Tổng Thư Ký từ chối đăng…
Cả hai ông cựu sĩ quan nầy quả thực quá may mắn, nhất là ông Thế Uyên. Vì theo luật lệ hiện hành, quân nhân tại ngũ không được làm chính trị. Ngay cả việc lập gia đình cũng phải xin phép Bộ Quốc Phòng, nói chi tới việc viết lách bất lợi cho chính quyền trước 75 như “quan” Thế Uyên. Ông trung tá kia nghe đâu là sĩ quan phục vụ tại Tổng Cục Chiến Tranh ChínhTrị mới cơ khổ chứ!
Sự kiện nầy chứng tỏ -muốn nói sao thì nói- miền Nam trước 1975 vẫn tự do dân chủ gấp vạn lần toàn cõi Việt Nam sau 1975.
Xin tạm gác chuyện hai “ông quan” nầy một bên. Vì mục đích hôm nay của tôi, khi lôi bài viết thứ hai của tôi bị xếp xó -hy vọng nó được phổ biến trên mặt báo- là vì…bất ngờ câu chuyện Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lại trở nên vấn đề thời sự nóng bỏng, với Đại Hội Giới Trẻ Thế Gìới, tổ chức tại Úc Châu vào tháng 7/2008, với lời kêu gọi (lại kêu gọi!) dẹp bỏ Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ -ngay trên miền đất đón nhận những người Việt tị nạn cộng sản- của một người thuộc hàng giáo phẩm cao cấp trong Giáo Hội Công Giáo Việt Nam tại quê nhà…
-LTL-
(Xứ Tuyết, mùa hè 2008)
****


Phù phiếm luận (2)

Câu chuyện dưới cờ

Tết nhứt tới nơi. Dù không còn cảnh “đêm nghe đại bác”, cũng không còn thấy lòng rộn rã vui với “xác pháo đầy đường nhớ cố nhân”, rồi lâng lâng ngắm nhìn khóm cúc khoe tươi, cành mai rộ nở, tôi “cũng cố vui ngang gái được chồng”, tạm rời xưởng cắt sắt. Trút bộ áo xanh công nhân bạc màu vì mạc sắt bám đầy, cởi đôi “bốt-đờ-xô” an toàn nhầy nhụa dầu mỡ, nghỉ bậy vài ngày giải lao, tôi định bụng chỉ cầm chai, chứ không có ý “đầu xuân khai bút”, cho tinh thần đỡ căng thẳng. Anh hùng thấm mệt? Chiến binh ngơi nghỉ? Có thể. Sự nghỉ ngơi công chính, an lành của bác nông phu sau những ngày đầu tắt mặt tối cày cấy có lẽ đúng hơn.
Ấy vậy mà chằng yên thân! Tình cờ lật tập san Hợp Lưu, số 7, tháng 10 & 11/1992 do một văn hữu từ Hoa Kỳ gửi tặng, đọc xong bài phỏng vấn nhà văn Vũ Huy Quang, do nhà thơ Phạm Việt Cường thực hiện (trang 185), tôi nổi máu “quan” công (chợt quên mình là công nhân) vớ cây bút cùn (thay vì quơ thanh long đao vớt trái), trút bầu tâm sự ứ tức, xả xú-bắp an toàn cho nó khỏi nổ tung. Hóa ra vô tình lạc điệu với mùa xuân vừa e dè ló dạng…
Yên chí đi nhà văn Vũ Huy Quang. Tuy vốn có chút máu kiêu căng của loài công đực, thực ra tôi chỉ còn là con công ngái ngủ. Tuyệt nhiên không có ý phùng xoè như loài công vũ, công thủ, “động đậy cho người ta khỏi quên thế thôi” (chữ của Nguyễn Mộng Giác), khá đông trong hàng ngũ của giới được xếp vào nhóm làng văn, nhưng cung cách hành sử hầu như sao chép toàn bộ thủ thuật của phe làng võ: Nói là văn chương tải đạo nhưng chỉ nghe toàn tiếng khua rổn rảng của nòi văn chương tải đạn (Xin nói thêm, phía chủ xướng văn chương tải tình cũng ồn ào không kém. Nhưng, chịu khó hít thở kỹ đôi khi cũng bắt được mùi vị khá kín đáo của giống văn chương tải tiền…).
Nếu việc góp ý vài điểm nầy tạo cơ hội cho phe “động đậy” xỏ dép râu vào cẳng, chụp nón cối lên đầu nhà văn Vũ Huy Quang -và khiến tôi văng bút luôn- thì quả thật ngoài ý muốn của người viết. Nói thế không có nghĩa là người viết vô trách nhiệm đâu nhé!
*
Người được phỏng vấn là một cựu trung tá QLVNCH, “sau lưng ông vẫn còn nặng trĩu 11 năm quân ngũ (…)đã đi Bình Long, An Lộc, Dakto, Daksut (…)đã bị thương ở đèo Lai văn Chu (…) tác giả của 6 quyển sách đã xuất bản ở Mỹ”. Không rõ “bạn tôi (…) tác giả của 5 cuốn sách” mà nhà văn Kim Thi đề cập trong mục ngày…tháng…, như kẻ đã “lắc đầu” từ chối đề nghị của bạn bè mớm ý cho đương sự nộp đơn ứng cử Chủ tịch Văn Bút và “người được phỏng vấn” có phải là một chăng?
Nhìn chung, nhà thơ Phạm Việt Cường đã thẳng thắng đặt những câu hỏi phản ảnh trung thực những ưu tư, thắc mắc của đa số người Việt xa xứ. Và nhà văn VHQ cũng đã thẳng thừng trả lời không quanh co các câu hỏi, đôi khi rất gay go, có tính cách “vấn nạn”.
Mấy điểm sau đây, xin được trao đổi với nhà văn VHQ:
1-VHQ nói: “Những người chống cộng cực đoan xưa nay chỉ cưỡng lại lòng dân mà thôi”. Đồng ý về sự nhấn mạnh cụm từ cực đoan. Nhưng VHQ không đưa được những dữ kiện lịch sử cụ thể chứng minh điều xác quyết của mình.
Xin hỏi VHQ: Sự tan rã của Liên Xô, sự sụp đổ của các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, sự nhìn nhận “chủ nghĩa cộng sản là một lệch lạc trí tuệ của nhân loại” của các lãnh tụ trên thế giới (kể cả các cựu lãnh tụ khối cộng sản, ngoại trừ các “đại lãnh tụ” Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cuba) có “cưỡng lại lòng dân” chăng?
Dĩ nhiên, cũng như VHQ, tôi rất dị ứng với số người chống cộng mù quáng, rẻ tiền, mang sẵn trong đầu mặc cảm bị trù ếm (paranoïa), đánh trống thổi kèn như đám sơn đông mãi võ, to mồm chửi rủa hơn chắc tay súng trước đây và bây giờ cũng tiếp tục la ó, chụp mũ loạn. Nhưng tôi “may mắn” hơn VHQ là có ngồi tù cải tạo -ngoài việc hơn VHQ 2 tuổi lính- không “bất hạnh” chạy thoát trước ngày “đứt phim”. Nên tôi muốn thưa với VHQ điều nầy: Bọn tù cải tạo chúng tôi muôn người muôn ý; nhưng hầu hết đều đồng ý với nhau hai việc:
-Thứ nhất: Trước đây mình có tận tâm phục vụ nhưng chưa tận lực làm việc.
-Thứ hai: Nếu cần chọn lựa lần nữa, chọn bắn tới viên đạn cuối cùng hơn là buông súng bỏ chạy…vô rọ cải tạo.
Cố nhiên, sự nhất trí về điểm thứ hai ngày nay có thể đã phải thay đổi theo thời thế. Vả lại dư luận thế giới hiện lên án gắt gao bất cứ ai chủ trương dùng chiến tranh giải quyết chính trị. Nhưng điều đó không có nghĩa là những người thua cuộc năm xưa hoàn toàn vô lý ở thời điểm đó. Họ có thể tủi nhục vì bị kẻ thắng cuộc đày đoạ, phỉnh gạt; họ có thể oán hận cấp lãnh đạo, lũ quan to đã lợi dụng xương máu của họ như VHQ rồi bỏ chạy. Nhưng tôi không tin họ có thể nguyền rủa lý tưởng tự do, phỉ nhổ lên Lá Cờ mà bấy lâu nay họ đã đóng góp xương máu. VHQ có thấy hình như mình đã đi quá đà rồi chăng?

2-VHQ nói: “Ông ấy (Trang Châu) không thể bỏ Lá Cờ được” (…) vì “đã trao tận tay cho cô nhi quả phụ” (…) “Giễu thật!”. Tôi thật không thể tưởng tượng một người ăn cơm lính 11 năm, đã có mặt ở các chiến trường sôi động nhất, đã từng bị thương, đã từng di tản bạn bị thương, đã từng gác xác bạn, lại có thể buông ra lời đùa cợt “giễu thật” khi y sĩ thiếu tá mũ đỏ Lê Văn Châu “đã trao tận tay (Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ) cho cô nhi quả phụ”!

Tôi lại có cái may mắn kể cho VHQ câu chuyện về Lá Cờ trong trại cải tạo: Trung úy H. sĩ quan truyền tin QLVNCH bị bắt làm tù binh mùa hè đỏ lửa 1972, khi vào tù CS lần nữa, sau 30 tháng 4/1975 đã kể cho tôi nghe lần trao đổi tù binh sau Hiệp định Paris. Anh và số binh sĩ cùng bị giam được phóng thích, áo quần te tua, đi đứng không vững vì đói lả. Nhưng khi thấy thấp thoáng ở bìa rừng Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đã nhắm hướng đó chạy miết tới, quì níu Lá Cờ hôn khóc nức nở…Anh và các bạn cảm thấy như vừa tìm lại được gia đình thất tán từ lâu. Cảm giác của họ tương tợ như cảm giác sau nầy của chúng tôi khi vượt biển chìm tàu mà vớ được phao…
VHQ thử chịu khó tìm hiểu xem những thuyền nhân Việt Nam lên ghe vượt đại dương mang theo Lá Cờ nào, đã phủ lên mui ghe Lá Cờ nào để trực thăng nhận thấy, ra tay cứu vớt? Và khi chưa ra khỏi hải phận quốc tế, họ sợ Lá Cờ nào nhất?
Nếu tôi chưa thuyết phục được VHQ thì lại xin kể hầu người một chuyện nữa về Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, mà chính người cũng thừa nhận “quý lá cờ ấy lắm”. Chuyện nầy, nếu người còn có điểm nào hồ nghi, xin mách người tìm hỏi mấy cựu tù Z30D, trong số có:
-Danh ca Duy Trác, cựu trung uý ngành Quân Pháp QLVNCH, vừa từ VN đến Texas mấy tháng. Tiện thể, xin người tìm đọc bài phỏng vấn đặc biệt “Nói chuyện với Duy Trác, những ngày tháng còn ở lại” do nhà văn Trọng Kim thực hiện (Sóng, số 127, tháng 12/1992) để bổ túc sự hiểu biết quá hạn hẹp của người về tình cảnh của những anh chị em còn kẹt trong vòng lao lý của chế độ XHCNVN, một chế độ mà dường như người “hồ hởi” tin tưởng họ rất dễ dàng “cởi mở”, sẵn sàng “đổi mới”,
-Cựu dược sĩ trung úy Vũ Văn Quang, bút hiệu Vũ Như Ty -người từng nằm “cô-nếch” dài dài vì đã nhiều phen đập vỡ mặt mấy tay tù theo đuôi kiếm điểm với “cách mạng”, bô bô cái miệng gọi bạn đồng tù là “ngụy”, kêu tên các cựu lãnh tụ VNCH bằng thằng nầy, thằng kia- cũng vừa từ VN sang Virginia chưa đầy một tháng:
Trại cải tạo Z30D có một Đội Lâm Sản, được “tự do” đi đốn củi mà không cần vệ binh đi “bảo vệ”. Họ thường xuyên cung cấp tin tức bên ngoài cho anh chị em tù. Cái mà ai nấy đều cố bám víu vào để hy vọng, để trường tồn, để chịu đựng là việc các tù tiều phu thuật lại, thỉnh thoảng có bắt gặp bóng Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ lấp ló sau những rặng cây dầy đặc của khu Rừng Lá bao quanh trại tù…
Từ đó tôi nghĩ, thay vì đặt câu hỏi: “Lá cờ ấy có phục vụ cho dân tộc không?”, VHQ nên tự hỏi: “Dân tộc (như VHQ và cả tôi cùng nhiều chiến hữu khác) có phục vụ đúng mức Lá Cờ ấy không?”, có lẽ nghe hợp lý hợp tình hơn chăng? Cho tôi hỏi nhỏ VHQ: Người nhìn nhận người “mà không nhanh chân (người) cũng ít ra 10 năm tù cải tạo”. Chẳng hay lúc tháo chạy người có mang theo “Lá cờ ấy” chăng? Ít nhất là để thỉnh thoảng nhìn nó nhớ lại “nó thuộc về quãng đời hoa niên của (người) -dẫu đã nhọc nhằn quá lắm” ?

3- “Cờ quan trọng hay người quan trọng?”. Hỏi thế dường như thừa khi VHQ đã có sự chọn lựa, vì câu trả lời nằm trong sự chọn lựa đó. Cờ quan trọng: Chết dưới Cờ. Người quan trọng: Vứt Cờ chạy thoát thân.
Tôi sững sờ trước câu nói quyết liệt của VHQ: “Những người tôn thờ lá cờ, thực ra tôn thờ chính họ, vui với quá khứ vàng son của họ”! Không rõ người “một lần dại đủ rồi” đã trót dại tình nguyện phục vụ hay được gọi phục vụ dưới cờ ? (Mỹ từ của Pháp: Engagé volontaire ou Appelé sous les drapeaux?).
Riêng kẻ hèn nầy, tuy không tự ý lấy quân đội làm vợ, nhưng thời gian bất đắc dĩ chung sống với tập thể kaki càng lúc hắn càng thấy mình yêu cô vợ miễn cưỡng nầy qua nhiều cậu chồng tự nguyện lao đầu vào cũng có, bị gọi vào động phòng cũng có, “cảnh sát mộ” vào nhập cuộc cũng có luôn! Lắm lúc hắn cũng ngậm ngùi nghĩ tới biết bao thằng bạn vạn lần ưu tú hơn mình đã nằm xuống vĩnh viễn và càng thắm thía câu “được gọi phục vụ dưới cờ” (Hắn xin nói rõ : thắm thía cho mọi thanh niên, thanh nữ ở mọi thứ quân đội, dưới mọi thể chế).
Phải chăng hắn nên hiểu rằng lá cờ mà VHQ đề cập tới chỉ là lá cờ tướng của mấy ông đeo sao? Chẳng lẽ mấy đứa con thân yêu nằm yên dưới Lá Quốc Kỳ “thực ra tôn thờ chính họ với quá khứ vàng son của họ“ cùng giun dế? Chẳng lẽ thân nhân, bè bạn của họ khi “tôn thờ lá cờ” là thờ phượng “quá khứ vàng son của họ” qua nắm xương tàn cốt rụi mà họ đã gửi lại trong lòng đất quê hương?

4- Lẽ nào tôi kém thông minh đến nỗi không thấy VHQ đồng hóa “Lá Cờ ấy” với cựu hoàng Bảo Đại, với cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, với cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu hay cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ…Nhông? Lý luận nầy, tôi có thể hiểu ra nếu nó đến từ những người thiếu hiểu biết, cùng lắm là từ lớp người trẻ sinh ra và trưởng thành ở hải ngoại, hoặc từ những ai không trực tiếp liên hệ tới cuộc chiến ý thức hệ vừa qua ở Việt Nam.
Học đường nào không dạy trẻ con tôn trọng lá cờ, cho dù chỉ là lá cờ tiêu biểu cho một đoàn thể hướng đạo, huống chi lá cờ tiêu biểu cho một tập thể, một cộng đồng, một quốc gia, lá cờ mà tập thể đó, cộng đồng đó -dưới mọi thể chế, mọi xu hướng chính trị- đã hàng triệu triệu lần bó thây con em mình đã xả thân bảo vệ nó, hàng triệu triệu lần tung bay trong các đại lễ, hàng triệu triệu lần buông rũ trong những buổi chiêu hồn tử sĩ hay trong các dịp quốc tang?

5- Tôi chưa kịp hoàn hồn thì VHQ búa thêm một búa nữa : “Cho nên (ông nầy ngon nhỉ!), cờ vàng bỏ trước. Bỏ đây là bỏ cái tinh thần. Cờ đỏ bỏ sau”. Bỏ mẹ không chứ! Lúc tôi đi lính, đã có thằng bạn khuyên bảo : “Đánh đấm chi cho vô ích. trung lập mẹ đi, cho nó khoẻ. Mầy bỏ súng trước, nó bỏ súng sau”. Khoẻ re! Rốt cuộc, bên bọn tôi bỏ súng thiệt vào ngày 30.4.75; bên tụi nó tới nay có bỏ súng đâu. Và thằng bạn thánh hiền nầy cũng đã bỏ chạy khi tụi tôi vào tù được đôi ba tháng!
Lặn lội qua tới đây, VHQ lại rủ tôi bỏ trước, tụi kia bỏ sau! Cũng may VHQ chợt nhớ: “Cờ là biểu tượng”. Nhưng lại nhắn nhủ thêm: “Tạm thời, ở đâu chào cờ nước ấy”. Nghĩa là người Việt có thể chào bất cứ lá cờ quốc gia nào dung nạp họ, ngoại trừ Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ hay Cờ Đỏ Sao Vàng. Cho nó khỏi sanh giặc. Cũng có lý. Song le, tôi trộm nghĩ, một VHQ đã “nói” bằng chữ hoa hai tiếng Dân Tộc -xem nào, dễ chừng cũng đến hơn mươi lần trong suốt bài phỏng vấn, đã gớm ghiết Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ, đã ghê sợ Cờ Đỏ Sao Vàng, có lẽ đã khởi đầu cảm thấy yên bụng nếu có lá cờ trắng in đậm hai chữ DÂN TỘC màu đen lất phất trên đầu mình để tôn thờ!
Đồng ý, không có bản nhạc nào giết người nhiều hơn bản quốc thiều, không có thứ vải nào quấn xác người nhiều hơn lá quốc kỳ. Nhưng VHQ ơi! Mấy cái thứ giết người đó chung qui cũng phát xuất từ quan niệm hẹp hòi, câu nệ, cố chấp, đầy tính tự tôn tự đại về Dân Tộc đấy người ạ! Trở về với nhân dân, tìm lại chỗ đứng trong lòng dân tộc là hai câu tôi nghe đã điếc cả tai, từ lúc còn cầm súng cho tới lúc chết dần mòn trong rọ cải tạo. Vừa hồi tỉnh đôi chút, lại nghe chan chát điệp khúc cà lăm Dân Tộc! Dân Tộc! Dân Tộc! Tội nghiệp thằng bé…Nên hãnh diện chăng về một Dân Tộc với 70 triệu sinh linh đang bị “Bọn Cường Hào Ác Bá Mới” khoét con mắt lắt hầu bao, với đôi ba triệu lê dân rải rác trên khắp mọi miền đất lạ chỉ chực chở “cắn xé nhau” -chữ của VHQ- vì cái thây ma Cường Hào Mới kia mà thiên hạ đồn rằng chết chưa chịu tẩn?

6- Những vấn đề trọng đại khác về văn học, chính trị “hợp thời trang”, xin nhường quyền cho những ai có nhiều năng khiếu hơn tôi. Vả lại, đã có quá nhiều tranh luận về văn chương phản kháng, hợp lưu…, về hoà hợp hoà giải dân tộc. Chỉ nhắc sơ : XHQ lại vừa chính thức “khai thông cho một thành phần thứ ba” ngo ngoe chỗi dậy, chập chờn làm phông cho một mưu toan Hoà Hợp Hoà Giải…Bỏ Cờ Xuôi Tay Chay Làng lần nữa…
*
Để kết thúc bài “nghe qua rồi bỏ, đọc sơ rồi liệng” nầy, tôi ước mong gió xuân, tuy không ấm áp như ở quê nhà cũng sẽ xoa dịu được phần nào niềm “hậm hực” nơi tôi, nỗi “ấm ức” nơi VHQ.
Rất tiếc VHQ không được cơ hội phát biểu những nhận xét của ông trong bài phỏng vấn nẩy lửa nêu trên về “Lá Cờ ấy”, về “Chính nghĩa Dân Tộc” v.v…trong vòng rào kẽm gai cải tạo, qua những bản lý lịch trích ngang trích dọc, qua những bản tự phê tự kiểm, tự buộc tội, thành thật khai báo... Chắc chắn người sẽ được cấp giấy khen là cải tạo viên ưu tú, đã giác ngộ đường lối cách mạng của đảng ta. Và “bản tự thú” của người chắc chắn sẽ được dùng làm “tài liệu học tập” cho bọn cai ngục sử dụng “giáo dục” bọn “ngụy ác ôn” chúng tôi!
Tuy chưa hề gặp nhau, VHQ và tôi cùng một số anh chị em khác đã có thời cùng một sắc áo, cùng một màu cờ, cùng một chiến tuyến. Và cho dù đội nhiều mũ khác nhau để phân biệt quân binh chủng, mũ sắc vẫn là cái mũ chung cho mọi chiến binh. Nó là thứ binh giáp còn sót lại đã bảo vệ đầu óc chiến binh chúng tôi trước hiểm hoạ bị tẩy não trong các trại tập trung cải tạo của CS.
Hy vọng nhà văn VHQ, nếu còn rơi rớt chút tình huynh đệ trong tâm khảm, sẽ cởi mở đón nhận những mẩu vụn vặt góp ý trên đây. Và coi chúng như Câu Chuyện Dưới Cờ -giữa hai người lính già lang thang nơi xứ người- mà xưa kia quân đội chúng ta thường có thông lệ tổ chức vào dịp cuối năm hay đầu năm .
Chót hết, bài tôi viết đây, xét cho cùng có thể chẳng ăn nhậu gì đến nhà văn VHQ, bởi người đã kết thúc bài phỏng vấn người như thế nầy : “Người trả lời không có lỗi. Người hỏi mới có lỗi.ai bảo dồn tôi vào chân tường?”
Nói năng trớt quớt kiểu nầy mà cả gan rủ rê thiên hạ xoá lá cờ nầy, bỏ lá cờ kia thì…hơi quá lố đấy nhé! Hạ «cờ tây» coi bộ thú vị hơn nhiều đấy, Vũ Huy Quang ạ!

Thôn trang Đổ-Lá-Đầy-Ấp-Mơ, Xứ Tuyết
-Lê Tấn Lộc-