Thursday, September 10, 2009

TĨNH TÂM CUỐI HÈ 2009


Vài cảm nhận về lần

TĨNH TÂM CUỐI HÈ 2009
«‘Ép-pha-tha’, nghĩa là: hãy mở ra »
(Mc 7, 34)
« Anh em có mắt mà không thấy,
có tai mà không nghe ư? »
(Mc 8, 18)

Kỳ họp dòng đầu tháng 6, khi được thông báo Cha Giảng Phòng cho lần Tĩnh Tâm của Dòng Phan Sinh Tại Thế Vùng Montréal vào cuối tháng 8-2009 sẽ là Cha Nguyễn Tầm Thường, tôi cảm thấy trong lòng hơi áy náy vì cái tật ưa ‘cà rỡn trong nghiêm chỉnh’ của mình -hơn là ‘nghiêm chỉnh nhưng (thực chất là) cà rỡn’ mà mình vốn rất dị ứng- e rằng không khéo mình sẽ bị mời đi chỗ khác tha hồ cà rỡn, vì ‘ở đây người ta làm việc rất nghiêm chỉnh, biết chưa?’...( ! )
Thiên hạ đồn rằng Cha Giảng Phòng, tuy danh hiệu Tầm Thường nhưng chẳng Tầm Thường đâu nhé, chớ có tưởng bở mà vỡ…mặt đấy! Lén phén là Cha thẳng tay đuổi ra về không vị nể, khỏi Tĩnh Tâm luôn…Cho nên tôi đã định sử dụng chiêu thức tam thập lục kế, âm thầm hát bài …tẩu mã: đi Âu Châu sớm hơn dự tính ban đầu, vào khoảng trung tuần tháng 9. Nhưng vào giờ chót, tôi quyết định nấn ná ở lại ghi danh tham dự.
Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
Thử xem con tạo xoay vần nơi nao!
Tôi lại còn ‘can đảm’ tháp tùng một số anh chị em đón Cha từ Hoa Kỳ bay sang. Gan thật, dám liều lĩnh ‘vuốt râu hùm’! Ấy thế mà tiếp cận lần đầu với Cha, tôi ‘cảm nghiệm’ ngay Cha không ‘khó’ như dư luận đồn đãi. Cha chỉ phân định rạch ròi giữa hai lãnh vực sinh hoạt: vui chơi và làm việc.
Bữa cơm tối chào mừng người Cha viễn phương đến với đàn chiên hôm đó, một dòng viên nêu ra vấn đề các bác lớn tuổi trong Dòng đa số ‘khiếm nhỉ’ (lãng tai) nên hay phát ngôn to tiếng, tôi góp ý: Nếu chúng ta không cố gắng khép mình vào kỷ luật thinh lặng khi tham dự Tĩnh Tâm thì, tuy mang danh Dòng Nghèo Khó hóa ra chúng ta ‘nghèo mà không chịu khó’! Cha Trợ Úy Aimé Đỗ Văn Thông của chúng ta đã không từng nhắc nhở ACE ‘Người ta khó chịu thì mình chịu khó. Nhưng khi đã chịu khó rồi thì đừng lấy làm khó chịu đã chịu khó. Vì như vậy còn tai hại hơn là không chịu khó từ đầu’… sao?
Cha Nguyễn Tầm Thường vỗ vai tôi, cười xòa. Vậy tôi có thể an tâm: Cha có óc thanh tiếu (sens de l’humour). Hy vọng Cha thuộc dòng ‘thanh tịnh tươi cười’ (sénérité souriante), chứ không rơi vào nhóm ‘thanh tịnh cáu có’ (sénérité grimaçante). Mong thay!
*
Buổi đầu sinh hoạt với Dòng Cha đã làm tan loãng tảng băng giữa hai định kiến, khiến mọi người cười rộ: Cha đề nghị đánh cuộc xem ai thắng, ai thua: Cha khó, đúng như dư luận loan truyền hay Dòng thường ngủ gục, đúng như tin đồn rộng khắp!
Những ngày sau đó, anh chị em càng lúc càng cảm thấy Cha khó. Bởi lẽ lâu nay Dòng PSTT Vùng Montréal hình như chưa hề nghe qua cách giảng phòng nào quá ‘đặc biệt’, nếu không muốn nói là quá ‘cách mạng’như thế! Cha khó thiệt: Cha hỏi dồn dập, đưa ACE vào thế ‘bí’, khiến ACE lúng túng khi phát biểu. ACE muốn nói cái gì? Đã định nghĩa chính xác các khái niệm (concept) mình muốn khai triển chưa? Cha càng hỏi, ACE càng lờ mờ, càng lẩn quẩn trong cách diễn tả quan điểm, gần như đang ngủ gục trong những điều thu lượm được trong kinh sách, rồi tự động cho ‘tuôn’ ra, cơ hồ như đang trả bài…Cho nên cuộc ‘quần thảo’ giữa Cha và ACE tiếp diễn dài dài, bất phân thắng bại!
Tôi tưởng tượng như đang chứng kiến cảnh đối đáp giữa Socrate -cha đẻ của triết học tân thời- với các triết gia thuộc trường phái Ngụy Biện (Sophistes). Các triết gia nầy thường hãnh diện về sự hiểu biết vững chắc của mình. Trong khi họ thao thao bất tuyệt thì Socrate giả vờ như ngu dốt, ‘không biết gì cả’. Nhưng Socrate cứ hạch hỏi họ tới tấp, như ông không thấu hiểu những gì họ xác quyết, bằng cách yêu cầu họ định nghĩa rõ rệt những khái niệm họ nêu ra trong lúc tranh biện…Cuối cùng họ khám phá chính họ mới thực sự không biết gì hết ngoài một số định kiến hàm hồ hấp thụ qua thói quen mà họ ‘tuôn ra’ như vẹt khi được cơ hội!
Về điểm nầy tôi nghiệm ra phương thức giảng phòng của Cha Tầm Thường thể hiện quan điểm của Voltaire, triết gia người Pháp, thế kỷ XVIII: “Quan niệm đúng thì phát biểu rõ” (Ce qui se conçoit bien s’énonce clairement). Đột nhiên tôi chợt nhớ ‘cụm từ’ người Việt ưa dùng mà tôi không làm sao hiểu nổi: ‘Nói hổng phải nói chớ…’(!) Cái gì vậy bà con? Nói (mà) hổng phải nói là… sao? Nói hay không nói, chứ sao lại vừa nói vừa hổng phải nói? Chẳng lẽ phải hiểu là nói khơi khơi, chẳng muốn nói cái gì cả. Nói như Tây nó bảo: Parler sans rien dire…chăng? Y như mình programme cho cái TV, tới giờ nào đó nó tự động‘xổ ra’ một tràng âm thanh vô hồn…
Tôi cũng nghiệm ra có lẽ Cha đang ứng dụng phương pháp ‘đỡ đẻ’ (maieutique) của triết gia Socrate: Những câu hỏi dồn dập về định nghĩa giúp các môn đệ của Socrate ‘khai hoa nỡ nhụy’ chân lý đã tiềm ẩn nơi họ…
Một phương pháp tuyệt vời! Nhưng bất hạnh thay cho Socrate, nếu các mộn đệ ông trân quý và tri ân ông bao nhiêu thì một số môn sinh và tập thể các triết gia Ngụy Biện ức lòng ông bấy nhiêu… Vì ông vạch cho họ thấy rõ chân tướng ngu dốt nhưng cứ nhắm mắt nhắm mũi tự cao tự đại về mớ kiến thức gồm toàn những định kiến không kiểm chứng được của họ! Cái mà họ hiu hiu tự đắc coi như một tạp lục kiến thức bách khoa (connaissance encyclopédique) thực ra là một hỗ lốn ngu dốt bách khoa (ignorance encyclopédique)! Họ căm thù ông, vu cáo ông đầu độc và làm suy đồi (corrompre) giới trẻ. Và lập tòa án xét xử, buộc ông uống thuốc độc tự tử. Hỡi ôi! Thuốc đắng đả tật nhưng…Lời thật mích lòng!
Tôi có phần lo âu cho Cha Giảng Phòng và rốt lòng cầu nguyện Ơn An Lành cho Cha…
**
Những giây phút đầu của buổi huấn đức mở đầu chương trình, tôi cũng hụt hẫng, chới với -như đa số ACE- cảm thấy bất ổn, lạc lỏng trong một khung cảnh khác lạ hơn không khí ‘an lành’của những ‘đường xưa lối cũ’ thênh thang, theo khuôn phép sinh hoạt cổ điển mà ACE chúng ta đã quá quen thuộc. Cha Giảng Phòng lần nầy đã khuyến khích chúng ta đi chệch ra ngoài những lối đi an toàn, kẻ qua người lại tấp nập (hors des sentiers battus), tự dò đường tìm đến với Lời Chúa đích thực, sống động.
Do đó, chúng ta hơi bực dọc, không thoải mái, e ngại lạc lối! Cho nên mới có ý kiến Cha giảng ít quá! Nhưng lại có ý kiến khác cho rằng Cha giảng ít vì Cha chủ ý khơi động mạch ‘tư duy’ cho chúng ta suy gẫm Phúc Âm, lắng nghe Chúa nói và tâm sự cùng Chúa. Nhóm nầy cho rằng Cha giảng như thế đã đủ so với thời gian eo hẹp dành cho phần huấn đức. Nhóm kia lại nghĩ là Cha giảng như vậy là quá thiếu, chưa đủ để thỏa mãn niềm khao khát của một số ACE muốn nghe Cha giảng nhiều hơn nữa, vì từ lâu họ đã nghe một dòng viên nức nở khen Cha Nguyễn Tầm Thường giảng rất “tuyệt vời…Đã nghe Cha Nguyễn Tầm Thường giảng rồi thì sẽ không cách chi còn có thể chịu ngồi nghe các Cha khác giảng…nhạt phèo được nữa!”. Cảm tưởng của dòng viên nầy được lặp đi lặp lại như một điệp khúc bất tận, dần dà trở nên một ‘ám ảnh’ , một ‘ấn tượng’ ăn sâu vào tiềm thức một số ACE náo nức ‘thèm’ nghe Cha Tầm Thường giảng!
Về điểm nầy, tôi nghĩ rằng, nếu Cha thấy ACE góp ý phát biểu lờ mờ thì, ngược lại. tôi thấy Cha giải đáp cũng lơ lửng! Đúng hơn Cha bỏ lửng, không đi đến tận cùng cách lý giải. Nhưng tôi nghĩ rằng Cha đi đúng tôn chỉ của Linh Thao mà Cha là một chuyên viên thượng thặng. Cha có nói linh hướng không phải là việc có thể gấp rút ‘làm cho xong trong ngày’, trái lại là một thao luyện từng bước và trường kỳ. Do đó, theo tôi, trong 3 ngày tĩnh tâm Cha chỉ mới khai mở một chặng đường ngắn trên đoạn đường rất dài… Nói nôm na, những gì Cha giảng trong lần tĩnh tâm của Dòng PSTT có thể xem như ‘tập một’ của bộ truyện dài Linh Thao nhiều tập…Như vậy, theo tôi, ít nhiều Cha đã vạch ra cho ACE ý thức về bước đầu trong tiến trình linh hướng, theo cách Xét Mình, kiểu Socrate: “Hãy tự biết lấy mình! - Connais-toi toi-même!”, để nhận ra quả thật “Tôi chỉ biết có mỗi một điều: Tôi không biết gì cả! - Je ne sais qu’une chose: Je ne sais rien!”. Bài học về lòng khiêm nhường nầy hữu ích cho tất cả mọi người, không nhất thiết chỉ riêng cho chúng ta, đúng không ACE?
Khiêm cung, khiêm tốn, khiêm nhường,
Khiêm nhu, khiêm hạ, ‘Vui Mừng Bình An’
***
Tôi nghĩ rằng mỗi người trong ACE chúng ta, sau mỗi lần Tĩnh Tâm đều lãnh hội một ít điều lay động tâm hồn mình. Cho nên thiết nghĩ tôi không nhất thiết phải làm công việc khó khăn và ‘bạt bẽo’ đúc kết những thảo luận, những chia sẻ đề tài huấn đức ‘Để sống tự do và hạnh phúc hơn’. Bởi vì đúc không đầy đủ thì kết không vẹn toàn. Vả lại, tôi nghĩ rằng hầu hết ACE chúng ta đều đã tập trung theo dõi những gì Cha Giảng Phòng chuyển đạt. Ngoài ra, như thường lệ, sau mỗi kỳ Tĩnh Tâm, sẽ có bài đúc kết tỉ mỉ của Ban Phục Vụ. Cho nên tôi chỉ muốn tóm lược những điều được ghi nhận như tương đối ‘động não’ tôi, mong được ACE chia sẻ và góp ý bổ túc…

1-Tôi thắc mắc tìm hiểu xem những gì Cha Giảng Phòng mới đây và Cha Trợ Úy trước đó trình bày về Tha Thứ bổ túc hay mâu thuẫn nhau, ít ra trên bình diện Công Bằng. Cha GP đặc biệt nhấn mạnh về ‘Tha’ như ‘buông’ cho mình được nhẹ nhàng trong tâm hồn, cho an bình nội tâm được vững chải, chớ có NGU (muội) trông chờ kẻ xúc phạm tới mình xin lỗi mình, đền bù cho mình. Hành sử như vậy chỉ tổ làm cho mình càng lúc càng khổ thêm, trong lúc kẻ xúc phạm tới mình vẫn ‘phây phây’, chẳng hề hấn gì -chẳng mất một sợi lông…chân nào hết! Chí lý quá, đúng không? Thế nhưng Cha TU thì cho rằng chúng ta ‘tha’ chứ ‘không quên’. Mà trước khi tha, cần chỉ rõ cho kẻ được tha biết hắn sai trái thế nào. Cũng là theo lẽ công bằng thôi! Cũng hợp lý quá đấy chứ, phải không? ACE nghĩ sao?
Lẽ ra tôi nên theo cách lý giải ‘lơ lửng’ của Cha Tầm Thường, để ACE tự tìm câu trả lời, nhưng tôi chưa thể đạt tới mức thanh tịnh siêu đẳng như thế, nên tôi đành chịu khó ‘ngu’, ôm những ray rứt về Bác Ái và Công Bằng vào lòng -dù biết trước chỉ tổ làm cho mình thêm nhức đầu nhức óc thôi- để trình bày những ‘trăn trở’ hậu tĩnh tâm của mình với hai Cha và ACE thân thương:
Về ẩn dụ ‘củ khoai’, tội cho kẻ bị tên láng giềng đánh cắp. Nếu tôi là nạn nhân, tức tối bức đầu bức cổ chờ nó xin tôi tha nó và chờ nó đền bù là tôi…ngu, vì trong lúc tôi xót xa bức rức, có thể nó đang hả hê ‘xực’ củ khoai của tôi và khoái trá cười tôi…ngu! Cho nên tôi chớ có dại khờ ‘đau khổ’ giùm cái tội ăn cắp của nó: tôi ‘buông’, tôi ‘cho qua’. Trên bình diện thanh thản cá nhân, đó là một thái độ hết sức khôn ngoan nhưng hình như quá …vị kỷ chăng?
Xin lấy lại ẩn dụ củ khoai ‘kinh qua’ cá nhân người viết: Tôi là người làm rẫy phương Nam, có thửa ruộng trồng khoai nuôi sống gia đình. Bỗng dưng đám người phương Bắc tràn tới tước đoạt mảnh vườn của tôi, lại còn bắt tôi cầm tù, hành hạ chí cốt. Nhân danh sự an bình nội tâm, tôi thinh lặng hòa giải cùng kẻ cướp. Vậy tôi khôn hay ngu? Có thể tôi khôn đấy, nhưng cái khôn đó được trả giá bằng sự nhắm mắt, bịt tai a tòng cho Bất Công, Sái Quấy, Gian Ác, Bạo Hành, Phi nhân thắng thế tràn lan, ngự trị! Vẫn biết Công Bằng mà không Bác Ái là sắt máu. Nhưng, Bác Ái mà không Công Bằng là…mù quáng!
Lý là thế đấy, nhưng xét cho cùng, quan điểm cùa hai Cha GP và Cha TU bổ túc nhau. Cha GP nêu lên giai đoạn tiền nghiệm (a priori), điểm khởi cho ta vững vàng tâm trí để nhân đức an bình của ta lan rộng và ảnh hưởng tới kẻ xúc phạm ta -điều kiện cần- trước khi bình tĩnh bước tới chỉ ra lỗi phạm của tha nhân hầu dễ dàng tha thứ trong tinh thần hoà giải đích thực trong tình người với nhau. Cha TU đề cập tới giai đoạn hậu nghiệm (a posteriori), điểm đến, tiếp nối chung cuộc -điều kiện đủ- của lòng thứ tha toàn mỹ: Bác Ái được cân bằng với sự tái lập Công Bằng!
Điều đánh động tâm tư tôi nhất ở điểm nầy là Cha GP nhấn mạnh: Cho qua không có nghĩa là nhu nhược và tha thứ để giữ hòa khí không thể đồng nghĩa với bao che, dung túng! ACE nghĩ chúng ta có nên nhìn lại kỹ lưỡng cái mà chúng ta thường khuyên bảo nhau ‘hãy hiền hòa thuận thảo’ -bằng mọi giá- chăng? Coi chừng chúng ta bị Pha-ri-sêu hóa lúc nào không hay biết!

2- Cha GP đã trình bày rất rõ về Tội và Vạ. Cho dù chúng ta có đền bù, phạt tạ đến đâu cũng không cách chi sạch tội hoàn toàn nếu không nhờ lòng thương xót và giá máu cứu chuộc của Chúa trên Thánh Giá… Cha GP chưa trả lời câu hỏi của tôi về việc Chúa cho tên cướp cùng bị đóng đinh với Người lên Thiên Đàng mà chưa qua quá trình đền phạt, vì Cha không còn thì giờ. Có thể dịp khác Cha sẽ lý giải chăng? Tuy nhiên, tôi vẫn thường xuyên tự hỏi -và muốn ACE cùng góp ý- ai là người đáng được cứu rỗi và vào nước Trời hưởng phúc đời đời: Kẻ vô số tội lỗi, vào phút chót thực lòng ăn năn hối cải hay người suốt đời thánh thiện giữ đạo, vào giờ chót cả lòng phản nghịch lỗi nghĩa cùng Chúa, đang tâm chối bỏ Chúa? Trong hai người, ai là người thực sự đấm ngực mình -chứ đừng đấm ngực anh em, như Cha TU thường nhắc nhở chúng ta- khi xướng đọc: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và cùng anh chị em(…)Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi! Lỗi tại tôi mọi đàng?

3- Cha GP cũng cho ACE và tôi có cái nhìn mới về Tòa Giải Tội. Tiếng là ‘Tòa’ nhưng Chúa không đóng vai trò trần tục của một thẩm phán xử án: Tòa giải tội là tiếng nói của Tình Thương do Người Cha ban ân xá cho con cái của mình. Tôi chợt nhớ lời nhắn nhủ của Cha TU: Ta đến xưng tội “để được Chúa chạm vào đầu mình” như người cha xoa đầu đứa con lỗi phạm ủi an, vỗ về, nâng đỡ tinh thần…Thật vậy: “Con Người đến không phải để giết mà để cứu chữa” (Lc 9, 56) “cứu chuộc kẻ hư mất” (Lc 19, 10).

4- Một điều khác cũng đáng ghi nhận về ẩn dụ ‘củ hành’ của Cha GP: Tiền tài, danh vọng, sự nghiệp, v.v…chỉ là các lớp bên ngoài bao bọc cái lõi bên trong của củ hành. Y như lớp sơn bóng nhoáng bên ngoài của những thành đạt xã hội phù du phủ lấp yếu tính con người vĩnh cửu bên trong, khiến chúng ta mê lầm đồng hóa nhân cách thâm sâu, đích thực (personnalité profonde, authentique) với nhân vật xã hội, ngoại vi (personnage social, superficiel)…Những chiếc mặt nạ ‘nhân vật’ nầy sớm muộn gì cũng rơi xuống, phơi bày con người thực sự của chúng ta: Tự bản chất, tất cả chúng ta đều là con cái của Chúa, nhân đức là giá trị qua tôi luyện đời sống linh hướng của từng người, không thể chuyển cho người khác, cho dù là người cật ruột. Và đường lối Chúa đánh động tâm linh mỗi người chúng ta đều theo cách riêng của Chúa. Mà “Đường lối Chúa khôn dò khôn thấu- Les voies du Seigneur sont imprénétrables” như Cha TU thường nhắc nhở ACE chúng ta!

5- Dụ ngôn về ‘đứa con hoang đàng’ được Cha GP đặc biệt lưu ý ACE. Cha hướng dẫn tường tận cách đọc Phúc Âm qua các giai đoạn ‘đọc+tưởng tượng+đặt mình vào những nhân vật trong các dụ ngôn+cầu-nguyện-thinh-lặng-nghe-tiếng-Chúa’. Cha nhấn mạnh về vai trò và tương quan của người con cả đối với người cha và người em của mình. Cơ hồ như tôi bắt gặp lời tâm nguyện của Cha cảnh tỉnh ACE chúng ta:
“Lạy Chúa,
So sánh mình với người khác có khi con thấy người khác cần trở về hơn con. Dấu chỉ con không cần trở về là con còn trong Giáo Hội, con đi lễ, còn giữ các giới răn, có khi còn giữ chức vụ này nọ trong Giáo Hội. Không biết những lề thói con giữ đó có bảo đảm cho con rằng con gần Chúa không hay chỉ là tâm tình nô lệ. Biết đâu sự trở về của kẻ ở nhà lại cấp bách hơn kẻ đi xa. Nỗi đau khổ của cha vì đứa con thứ bỏ nhà đi chưa chắc đã nặng hơn nỗi khổ tâm do sự có mặt của người con trưởng…”
(Nguyễn Tầm Thường, Con biết con cần Chúa).

6- Câu chuyện Cha GP kể để minh họa một xác tín quả thực chấn động tâm can tôi: Trong một lần tĩnh tâm với Cha 3 năm trước đây, chị Tuyết - đang hiện diện trong hội trường- có dẫn cựu thiếu tá Chế, nguyên tiểu đoàn trưởng thuộc sư đoàn 18, một Phật tử, đến tham dự. Đây là người cựu chỉ huy trực tiếp của chồng chị, cố đại úy Huệ, người đã nấn ná ở lại trận tuyến chờ giải cứu thiếu tá Chế, bạn mình đang kẹt trong vòng vây của địch quân, để cùng di tản. Và vì thế, đại úy Huệ đã tử trận! 37 năm sau, Lời Chúa “không gì đáng quí hơn hy sinh mạng sống mình cho bạn” bắt đầu tác động trên tâm tưởng của Phật tử Chế…
Chuyện kể nầy khiến tôi hồi tưởng lại chặng đường gay go của ‘nhỏ bé thôi’ tôi đây đến với Chúa: 74 năm về trước, thằng-bé-tôi chào đời trong một gia đình ngoại đạo; chưa đầy tháng đã được gia đình ‘ký bán’ cho ông Trùm họ đạo Bạc Liêu, nhưng không qua nghi thức rửa tội. 25 năm sau đó, lúc bấy giờ là sinh viên đại học, nó được một linh mục trao tặng một quyển Thánh Kinh đầu tay với lời nguyện cầu “để có ngày Lời Chúa sẽ vang động trong tâm hồn hắn…”. 20 năm sau lời nguyện cầu đó, nó trở thành con cái Chúa qua bí tích Thanh Tẩy, sau khi nó ra tù cải tạo của CS…
Chuyện nó đến với Dòng PSTT cũng qua một quá trình cam go dài lâu: 45 năm sau lần tình cờ nó tiếp cận Đức Cha Dòng Phanxicô phụ trách trại cùi tại Di Linh, trên đường nó rời Đà Lạt đi du học… ‘Nhỏ bé thôi’ tôi nghiệm đúng niềm xác tín của Cha GP: Hạt giống, khi đã gieo, sớm muộn gì cũng sẽ nẩy mầm!
****

Trong một lần Tĩnh Tâm do Cha TU phụ trách giảng phòng, Cha có nhắn gửi ACE, nếu đã gạt hết được mọi vướng bận thường nhật để đến với Chúa và ACE thì khi ra về cũng chớ mang theo những vướng bận đó, mà hãy bỏ chúng lại trong vòng rào khuôn viên tu viện Dòng Tên Villa Saint-Martin, cho tâm hồn được thanh thản như lúc Tĩnh Tâm.
Lần nầy, trong Thánh Lễ bế mạc Cha kể ẩn dụ về một người tín hữu có một láng giềng vô thần. Ông muốn ‘cải huấn’ người nầy, để anh trở thành tín hữu. Ông kín đáo gửi tặng anh một quyển Thánh Kinh và để ý theo dõi phản ứng của anh. Sau một thời gian, tình cờ ông khám phá quyển Thánh Kinh kia bị vứt vào thùng rác! Bèn tới cật vấn anh hàng xóm xem anh đã đọc quyển Thánh Kinh chưa. Anh nầy bình tĩnh trả lời đã đọc hết từ đầu chí cuối. Ông vặn hỏi tại sao anh ta vứt quyển Thánh Kinh. Chẳng lẽ không có gì tác động trên anh sao. Anh trả lời đã đọc hết Thánh Kinh qua cách sống của ông chẳng chút gì đáng cho anh noi theo, nên anh chẳng thấy có gì cần biết về quyển Thánh Kinh mà ông gửi tặng anh nữa! Không hiểu ACE chúng ta có thấy nên cần xét lại cách sống Phúc Âm sao cho có thể thực sự loan truyền nhân đức chung quanh mình như Cha TU ao ước và nguyện cầu chăng? Ý niệm ‘tâm tình nô lệ’ do Cha Nguyễn Tầm Thường gợi ra lại lởn vởn trong đầu tôi…
Những lần Tĩnh Tâm trước đây, trước khi ghi danh tham dự, tôi thường tâm sự với nhóm thân hữu hình như tâm thần tôi chao đảo, có thể đưa tới cái gọi là khủng hoảng Niềm Tin. Mỗi lần tâm tư khủng hoảng như thế, Mùa Tĩnh Tâm tạo cho tôi cơ hội tìm lại được Niềm Vui trong không khí gia đình PSTT, với biết bao bàn tay ân cần, trìu mến nắm tay tôi truyền hơi ấm của Tình Huynh Đệ Yêu Thương Nhau. Những lần như vậy, tôi như được hồi lực, hồi sinh, vui sống vì tìm lại được sự An Bình. Nhưng lần Tĩnh Tâm nầy, tuy lòng rộn rã Vui Mừng, hầu như tôi không đem về được sự Bình An cho tâm hồn lắng động… Tôi linh cảm có cái gì đó ‘trục trặc’ giữa anh em thuộc nhóm thân hữu thân cận, lâu nay vẫn hết lòng trao đổi, chia sẻ mọi vui buồn, thăng trầm trong việc tập sống đạo… Hy vọng rằng tôi linh cảm không đúng, có lẽ do tôi quá mệt mỏi chăng. Biết đâu châm ngôn ‘thương nhau lắm, cắn nhau đau’ giờ đây lại chẳng ứng nghiệm trong nhóm anh em thân thương chúng tôi ? Tôi đang cố gắng thuyết phục mình như vậy!..
*****
C
ó lẽ đã đến lúc tôi nêu ra vài nhận định về những gì tôi ‘thu hoạch’ được để suy gẫm thêm sau lần Tĩnh Tâm cuối hè nầy, mong ACE cùng chia sẻ:

1- Chắc hẳn, cũng như tôi, ACE đã nhận ra sự khác biệt trong cách giảng cũng như cách đến với chúng ta của hai Cha GP và TU. Có ý kiến cho rằng Cha NNT rất ‘khó gần, khó thân’ hơn so với Cha ĐVT. Đương nhiên! Vì Cha TU đã sinh hoạt 24 năm với Dòng, còn Cha GP chỉ mới lần đầu giao tiếp với chúng ta, chưa đủ thời gian tiếp cận, tìm hiểu nhau. Ngoài ra, cá tính và nhân cách (tâm lý) của hai Cha nói riêng, của mỗi người trong chúng ta nói chung, đều khác nhau: Chúa dựng nên con người hàng tỉ tỉ tỉ tỉ…lần, nhưng mỗi tạo vật đều là một ấn bản độc nhất (unique) -như các dấu tay chúng ta- chẳng bao giờ trùng hợp. Do đó nếu đường lối Chúa đến với chúng ta ‘khôn dò khôn thấu’ thì đường lối của hai Cha -nhờ ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần- đem Lời Chúa đến với chúng ta chẳng thể nào y hệt nhau!
Tôi nghĩ rằng Cha GP đến với chúng ta lần nầy rất bổ ích về hai phương diện:
-Chúng ta được lay động cho tỉnh thức, cho ‘động não’ để khỏi ‘ngủ gục’ trên thói quen lười biếng ‘trả thuộc lòng’ những gì đã thu nhập và tích lũy từ các lớp dạy giáo lý. Cha GP rất thuần lý (rationnel).
-Chúng ta nhận rõ hơn giá trị tình cảm của Cha mình, một linh mục quá ‘dễ mến’: Cha TU Aimé của chúng ta rất mực yêu thương, gần gũi, nâng đỡ tinh thần các con chiên của mình, lúc nào cũng sẵn sàng san sẻ mọi nỗi vui buồn, sướng khổ với ACE chúng ta.Tình sao là tình!

2- Đã nhắc tới công đức của hai Cha thì không thể bỏ qua công sức của Ban Phục Vụ. Được sự đồng ý của tác giả, tôi xin phổ biến nội dung điện thư gửi cho Ban Báo Chí mà tôi hoàn toàn tán đồng quan điểm và tin rằng ACE cũng đồng ý:
“Dù việc gì xảy ra trong lòng tôi, trong lòng các bạn, ba ngày tĩnh tâm cũng đã kết thúc rất tốt đẹp. Một điều mà chúng ta không thể phủ nhận là công lao của Ban Tổ Chức. Họ quá tuyệt vời trong bổn phận. Chu đáo từng chi tiết, đi sát với chương trình. Những gì các bạn đã làm cho chúng tôi, chúng tôi đã xin với Cha Trên Trời trả lại cho các bạn. Xin các bạn đừng khó chịu với những ý kiến, những bàn tán xôn xao. Vì ý kiến như những món ăn, mỗi người mỗi ý thích, chúng ta cũng không thể nói mọi người đều thích cái chúng ta thích. Các bạn nên hãnh diện và vui vẻ vì các bạn đã làm hết mình trong tình yêu anh em. Chúng tôi rất may mắn đã có một Ban Phục Vụ rất đẹp như các bạn” TX.

3- Gần đây, nhiều phong trào từ trong nước bung ra ngoài rầm rộ kêu gọi quyên góp tu bổ hoặc xây cất thêm nhà thờ cho quê hương, trong khi ở hải ngoại nhiều thánh đường đã phải ngưng hoạt động hoặc phát mãi vì thiếu tiền bảo trì. Bỏ qua chuyện lạm dụng hay khía cạnh chính trị của vấn đề, tôi nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta tự vấn: “Từ trên trời cao nhìn xuống, Chúa có băn khoăn vì biết bao tâm hồn đang lo âu chỉ vì đền thờ, hay Chúa vui vì vẫn thấy lấp lánh những vì sao trên những thánh đường đổ vỡ” (Nguyễn Tầm Thường, Viết trong tâm hồn)…
Nào phải đâu Giáo Hội chỉ tồn tại được ngày nào còn những kiến trúc nguy nga, đồ sộ, lộng lẫy khắp nơi!

4- Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài và ban cho chúng ta tự do nhận hay không nhận Ân Xá của Ngài với giá máu cứu chuộc nhân loại của Con Người. trên Thập Giá. Vì là hình ảnh của Chúa nên Người muốn chúng ta nên thánh để giống Người qua con đường tu đức. Chúng ta hoàn toàn tự do đi hay không đi theo con đường đó…Nhưng chúng ta “phải đi một mình”(a).
Con đường tu đức nầy, tuy ta có Tự Do đi hay không đi, nhưng khi đã quyết định đi thì ta chỉ đến được bến bờ Hạnh Phúc nếu được Ơn Cứu Độ của Chúa. Bởi đây là con đường “không thể một mình đi” (b). “Có những con người”(c) khác biệt thì cũng “Có những con đường” (d) khác nhau cho Chúa đến với chúng ta…(a+b+c+d: Nguyễn Tầm Thường, Đường đi một mình).
Vâng, Chúa ngự trên trời cao, luôn thương xót ban Hồng Ân Xá Tội cho con cái Người. Nhưng chúng ta phải cầu xin và lãnh nhận, bởi vì “hễ ai xin, sẽ được, ai tìm sẽ thấy, ai gõ sẽ mở cho” (Lc 11,9) !

Thôn trang Rêu-Phong, cuối hạ 2009
-Lê Tấn Lộc-


























No comments: