Friday, May 30, 2008

Nha sĩ của lòng anh






Dao phai cứa cổ, máu đổ không màng…
Chết thời chịu chết (chớ)
buông nàng (ơ ớ) không buông (ớ ơ)…

Chàng rón rén bước ra khỏi phòng, lần mò xuống bếp, cố tránh gây tiếng động. Lớp tuyết trắng bên ngoài phản chiếu ánh trăng vằng vặc hắt vào nhà đã đủ sáng. Nàng mới vừa «cà răng» chàng tới 3giờ khuya… Ban chiều, trước khi đi dự tiệc, nàng đã dặn đi dặn lại chàng đừng uống rượu nhiều; mà chàng hễ thấy rượu là như lân thấy pháo! Đã biểu hễ ngà ngà rồi thì đừng bày đặt hát hò như Tây say. Vậy mà chàng cũng chiếm cho được «đài phát thanh» lè nhè ca bản nhạc mà nàng cay cú nhứt trong số bài bản chàng sáng tác. Đã vậy, còn líu lưỡi giới thiệu bản L’Angélique Gwen của Tin Yêu -bút hiệu của chàng- thành L’Alcoolique Ghen của Yêu Tinh! Thiên hạ cười rần; nàng đỏ mặt tía tai, lẻn trốn vào toilette, ấm ức…
Chàng mở tủ lạnh, cầm chai…xê-ven-nấp tu ừng ực cho hạ hỏa, rồi thu mình vào góc tối nhứt của bàn ăn nhỏ, lấm lét nhìn lên lầu, vảnh tai nghe xem có rục rịch gì chăng. Lúc chàng bước xuống cầu thang, nàng đã ngủ mê mệt sau khi hành nghề nha sĩ không có bằng cấp.(Lẽ ra nàng phải được nhà nước cấp «đíp-lôm đê-ta» mới phải, bởi vì nàng rất tận tụy với nghề nghiệp bất đắc dĩ nầy). Tuy mùa đông sắp tàn, dù đã hơn 6giờ sáng, trời vẫn còn tối. Giờ nầy bạn bè ở Montréal chắc vẫn còn ngon giấc; bên Paris chắc Mẫn và Nguyệt đang ăn trưa; bên Cali chắc Nguyễn, Võ, Huỳnh đã gục ngã trên bàn tiệc.
Sáu tháng nay, nàng chịu khó theo chàng đi sinh hoạt văn nghệ, hi vọng chàng tìm được niềm vui mới sẽ bớt uống rượu. Bớt thì có bớt đấy, vì lúc cầm viết chàng quên cầm chai. Nhưng chàng có tật làm cái gì cũng say mê, không thức thâu canh uống rượu thì…viết sáng đêm, quên ăn quên ngủ! Nàng bực lắm, thời khóa biểu của nàng vô phương thích ứng với lối làm việc loạn xà ngầu của chàng. Nhức nhối hơn nữa là những chuyện chàng viết thường liên quan đến các «cố nhân» mà nàng tưởng đã dùng eau de javel tẩy sạch hết hoài niệm còn bám rễ trong đầu chàng! Nàng cằn nhằn, chàng nói nàng nên lựa chọn: hoặc cho chàng uống rượu giải sầu, hoặc để chàng viết văn tiêu khiển. Cũng bằng biểu nàng chọn lựa giữa thuốc rầy và thuốc chuột !
Bởi vậy, chiều hôm qua, ngồi dồn thịt nguội vô họng chàng như dồn cho ngỗng ăn, nuôi thúc, -chộ vốn cho cái bao tử chàng trước, để lát nữa nhập tiệc chàng có «dô, dô» cũng đỡ gục tại chỗ hơn- nàng cố gắng mớm ý cho chàng chuyển hướng:
-Sao anh không viết tiểu luận như hồi còn ở bên nhà?
Chàng cười ha hả, biểu nàng chờ chút. Lúc chàng trở lại, nàng thắc mắc hỏi chàng đang nói chuyện sao bỏ đi đâu, chàng tỉnh bơ trả lời:
-Đi tiểu. Bây giờ mình có thể luận được rồi đấy!
Nàng tức quá dậm chưn dẫy nẫy. Chàng phân trần, bây giờ không như trước đâu, viết truyện tình cảm lăng nhăng, truyện du hí lẩm cẩm chưa chắc đã được yên thân -người viết đã nhiều mà các nhà phê bình cũng không ít- nói chi tới viết tiểu luận. Tiểu bậy tiểu bạ thành tiểu loạn có màn lỗ mũi ăn trầu như chơi! Truyện dỡ ít tai hại hơn tiểu luận dỡ: mắc mớ gì bắt độc giả sốt ruột cầm canh nghe bên nầy chửi qua bên kia chửi lại dài dài…
Nằng nói nàng đâu có xúi dại chàng viết chính trị. Viết tiểu luận văn chương hay triết học Hoặc tâm lý học không được sao, «nghề» của chàng mà!
-Tết Ma-rốc anh mới dám viết về chính trị. Mình làm gì đủ kinh nghiệm và tư cách ? Vả
lại anh cũng chẳng có khiếu. Còn về «tiểu…triết», đã có quá nhiều tay « mê sảng chuyên nghiệp » muốn gây ảo tưởng về chiều sâu -sâu quá nên tối hù- chơi chữ riết rồi bị chữ nó chơi lại hồi nào không hay, cứ nằng nặc đòi hành trình từ hư vô vào…hư vô! Nhào vô đó có ngày mất tích luôn. Về «tiểu…văn» cũng có nhiều «chuyên gia» lăm le «đâm nổ mặt trời», «thách thức thần linh» nên anh cũng rét lắm. Nhảy vô kiếm ăn, sợ rủi tận thế bất tử bà con đổ thừa mình chọc cho trời đánh, bá tánh bị vạ lây. Riêng tâm lý học thì đã có quá nhiều ngộ nhận, nhiều lẫn lộn với môn đức dục, với mục tìm bạn bốn phưong, với trang tử vi đẩu số. Xưa đã có «Bà Tùm Lum» giải đáp tình duyên trắc trở, nay có thêm các «nhà tâm số» nhảy ra nối nghiệp mần ăn lớn. Láng cháng vô đó, không bị đổ ruột vì cạnh tranh bất chánh thì cũng bỏ ăn luôn vì tối ngày cứ lo «gỡ rối tơ lòng», «bói khoa và coi quẻ» !
-Em nói chuyện đứng đắn mà anh cứ cà rỡn không hà!
Câu chuyện trao đổi văn nghệ coi mòi không khả quan. Nàng ngoe ngoẩy bỏ lên lầu thay quần áo, theo làm bê-bi xít-tơ cho chàng đi họp mặt văn nghệ. Rồi xảy ra vụ nói lầm yêu-tinh-ghen-l’alcoolique… Chưa kể, vừa nhập tiệc chàng đã «kê» nàng:
-Thưa quí bạn! Bền trái tôi là nhà thơ…, bên phải tôi là nhà văn…, trước mặt tôi là nhà báo…, sau lưng tôi là nhà phê bình…Và trên đầu tôi là…là…nhà tôi!
Bảo nàng không «nực» chàng sao được. Trong bàn tiệc, hầu như ai ai cũng giữ miếng; chàng thì chứng nào tật nấy, xáp vô là xả láng. Chàng nói:
-Chơi ra chơi, làm việc ra làm việc; đâu thể lẫn lộn. Tiệc rượu, tính theo tiệc rượu. Bàn họp, tính theo bàn họp. Vừa uống rượu vừa «gồng» thì bày đặt uống chi cho nó mệt. Ngồi nhà uống trà rung đùi cho nó khoẻ. Uống rượu mà không say, nào hay! Rượu uống say? Dễ hiểu thôi! Ực trà đá chanh đường, hớp nước suối, nút cô-ca mà lật gọng, rồi phát biểu linh tinh, ăn nói lật lộng mới thiệt bất ngờ và khó hiểu !
Biết không hề thuyết phục được nàng với cách lý luận «lắc lư» của mình, để vui nhà vui cửa, sau màn bị cà răng chí cốt chàng hứa với nàng -cho nàng yên tâm dỗ giấc ngủ rất khó đến- từ nay trở đi chàng sẽ tu sữa thay vì «dô dô» nước hạnh phúc, để những ngày còn lại của hai đứa trong lứa tuổi trổ đồi mồi đỡ phần căng thẳng thường xuyên. Cũng chẳng dễ đâu: Bạn nào không bè, tiệc nào không tùng? Thế nhưng, tìm được người đối ẩm nhuần nhuyễn tinh thần Say là say nghĩa say nhân, Say chung Lý Bạch say đàn Bá Nha, chứ đâu phải ăn bã ăn hèm chi mà say…cũng rất khó. Chẳng lẽ bắt chước tiền bối Nguyễn Bính vỗ đùi ngâm nga Tết này, Ô! thế mà vui chán, Những một mình em uống rượu hồng…? Độc ẩm, tự «đã» nghe sao chẳng khác thủ dâm mấy! Không phải vô cớ, người xưa khuyên «trà tam, tửu tứ». Mà thôi, chẳng đặng đừng, tốt hơn nên lửa tắt bình khô rượu cho vừa lòng nhau…
Lần đầu tiên chàng thực sự muốn liệng ly, quăng bút vì ê chề, chán ngán. Nút sữa, cử tạ cho bà xã hài lòng, khỏi gây phiền toái cho thiên hạ, coi bộ có ăn hơn! Sữa rẻ hơn rượu, tạ dễ cử hơn bút. «Một tinh thần minh mẫn trong một cơ thể tráng kiện», xưa như trái đất, mà cũng đâu có trật ! Mới quọt quẹt vài bài, chàng đã mệt cầm canh: Phía «những tâm hồn cao thượng» nhắn nhủ chàng chớ có phát ngôn bừa bãi, làm văn nghệ phải nghiêm chỉnh, phải dấn thân -chàng cười thầm: Ấy! Ấy! S’engager-dấn thân khác hơn s’engluer-sa lầy chứ!- phải chuyên chở suy tư -chàng lo sợ mớ chữ nghĩa ô dề cục mịch mà chàng rị mọ cạy cục ra chất chở đã khẵm đò rồi, nhồi nhét thêm tâm tư nữa dám chìm xuồng lắm!- phải truyền đạt thông điệp -chàng vốn hay lạnh chưn trước các danh từ đao to búa nhớn, kiểu «sứ mệnh văn nghệ» mát-in Nguyễn «Nam Châm», thập niên 60, mà hiện nay lại được tung hô dưới chiêu bài «văn chương tãi đạo»(hay tãi đạn?), «văn chương chuyển lửa»(hay chuyên lụi?), cũng rất dị ứng với mọi hình thức áp đặt, cưỡng bức văn học.
Mà thôi, chàng nghĩ đã đến lúc nên dừng lại, quay về với chính mình, kiểm điểm. Nắng vừa lên, đủ soi sáng cho chàng viết lá thư xin được giải nhiệm trách vụ trong tòa soạn một nguyệt san và trong một trung tâm văn bút hải ngoại. Ngoài sân, một con chim nhỏ đậu trên dây điện hót thảnh thót. Hạnh phúc sao mà dễ ợt! Ngã người lười biếng trên ghế xích đu, nhìn khói thuốc lơ lửng bay lên cao, chàng thả hồn đuổi bắt hoài niệm…

Thuở ấy, dối gian, lả lướt, rượu, trăng, sao còn vây kín cuộc sống hàng ngày của chàng ở Sàigòn. Cũng quần quật «lao động» không thua kém hiện giờ nơi xứ lạ, chỉ thiếu mục mê-trô-đô-đô. Bởi thuở đó, với Mẫn, Nguyễn, Huỳnh, Võ và chàng, lao tâm được tiếp nối bằng lao lực, với những đêm dài trác táng không ngủ. Một thế giới quỉ ám, thế giới mà quí «hiền phụ» thường hiệp lực đánh phá không ngưng nghỉ!
Do việc làm khá đặc biệt, đòi hỏi phải di chuyển thường xuyên -như mấy em ca-ve chạy bàn- chàng thường ăn quán ngủ đình. Viện cớ «vì nhu cầu công vụ», chàng lạm dụng thời gian vắng nhà đi te rẹt tối ngày. Đến nỗi có lần, dù miệt mài làm việc và chăm sóc các con -cao quí thay tình mẫu tử- chợt nhớ có nguy cơ chàng bỏ phế gia cang, nàng giũa chàng te tua, rồi tạm kết bản cáo trạng bằng câu móc lò:
-Sao anh không mua đại cái «treo-lơ» kéo theo đi làm? Đỡ tốn tiền mướn phòng ngủ. Anh đâu cần ngó tới mặt con gái già nầy nữa, phải không?...
-Em à! Yêu không phải là nhìn nhau mà là cùng nhìn về một hướng, chàng châm chọc.
-Em không có giỡn với anh nghe! Mấy tháng nay, em thấy anh mất dạy lắm đó.
-Anh mất dạy thiệt. Bãi trường rồi, còn giờ dạy đâu mà không mất dạy!
-Anh đàng hoàng một chút có được không? Già đầu rồi chớ đâu còn con nít…
-Ậy,con nít còn «triết gia» hơn người lớn đó em! Con-người-triết-học Karl Jaspers đã viết: «Ta thường nghe từ miệng trẻ con những lời lẽ mà ý nghĩa đâm thẳng vào chiều sâu (lại chiều sâu!) triết học».
Cây chài vồ từ trong tay nàng -nàng đang đâm tiêu- bay vèo qua đầu chàng, đột ngột chấm dứt cuộc đối chọi triết lý! Chàng cúi lượm «tang vật» lăn lóc trên sàn nhà trả lại cho nàng, vỗ vai nàng nói:
-Võ lực là dấu hiệu bất lực của trí tuệ.
Nàng ôm bụng cười ra nước mắt nhưng không ra tiếng, dấu hiệu chàng đã được tha thứ, qua kinh nghiệm tích lũy từ những lần chàng bị chiếu bí trước đây. Lợi dụng lúc nàng đang vui vẻ, chàng đề nghị đưa mẹ con nàng đi ăn mì Cây Nhãn. Mấy đứa nhỏ nhảy tưng khoái chí khiến nàng cũng nguôi ngoai cơn giận -Ôi, tình mẫu tử thiêng liêng!- đồng ý lên xe ra Đa Kao. Đổ dốc Cầu Bông, vừa quẹo qua đường Đinh Tiên Hoàng, cả gia đình đã hít được mùi hương thơm của nồi xúp mì đang phà khói hòa trộn với mùi trái cây ngào ngạt tỏa ra từ hai cây nhãn chằng chịt những chùm trái treo lủng lẳng, hấp dẫn trong sân có đặt xe mì. Buổi ăn mì hôm nay nhắc nhớ lần đầu, khi mới quen nhau, nàng đưa chàng tới đây thưởng thức hương vị đặc biệt của món mì mà nàng đã mê tít từ thuở mới lên mười!
Chàng thấy nàng vẫn không thay đổi cung cách phục vụ chồng con: Gắp đút, thúc nhét, ép ăn; sung sướng ra mặt thấy «cha con tụi nó» ngon miệng. Và vì chăm sóc kỹ quá nên đôi khi gây ngộ nhận bất tiện: sau bữa ăn mì, Thùy đi học về chạy ngay xuống bếp kể:
-Con nhỏ bạn học cùng lớp nói tối hôm qua nó thấy má dắt bốn đứa con đi ăn mì. Con nói tụi tao chỉ có 3 chị em. Nó cãi: rõ ràng nó thấy ông anh lớn của con lái xe chở má, con, thằng Tấn và con Minh mà!
Nàng trợn mắt -chàng hoảng vía nhớ lại ba của chàng thường «chọc quê»: nàng trợn mắt, chàng té đái!- «quạt» chàng tới tấp:
-Em đã lưu ý nhiều lần mà anh vẫn chẳng chịu nghe. Bộ anh tưởng mình còn trai tơ sao mà cứ xỏ mấy bộ đồ híp-pi choi choi hoài vậy? Có ngày em xé hết cho anh biết tay!
Chàng cố gỡ gạc:
-Con nhỏ nó nói vậy cũng tốt, có sao đâu: Em thương chồng như thương con cái. Anh thương vợ như thưong cha mẹ!
Nàng lại gập người cười ra nước mắt nhưng không ra tiếng…

Thời gian nghỉ hè qua nhanh, vị trí «có dạy» được phục hồi, chàng trở lên bục gỗ hát cho đám trẻ ghi chép, bớt được thời gian bị nghe nhạc thính phòng tại gia. Có lần chàng rên, đi dạy về đừ câm còn bị nàng kèm trẻ tư gia về môn giáo dục công dân! Cũng mấy món cũ xào đi nấu lại: tiết kiệm chưng cách thủy lo xa, chồng giỏi tiềm thuốc bắc cha tốt, lưu linh xào bia ôm, hải cẩu chần hành «ghế linh»(gái đẹp), ly dị nướng vĩ thắt cổ v.v…Sực nhớ có lần vô lớp, sau giờ công dân của một nữ đồng nghiệp, chàng đọc trên bảng đen dòng chữ viết bằng phấn đỏ: «Phê bình như nói láo, cảnh cáo như nói chơi. Bị rầy như nghe hát, bị phạt như học thêm!» -chắc chắn do đám nam sinh rắn mắc chọc phá cô- chàng bèn đề nghị nàng thâu hết mấy món ăn chậm tiêu hâm tới hâm lui dành cho chàng vô băng cát-xét, để nàng khỏi nặng hơi mỏi cổ và đỡ mất thì giờ.
-Khi nào em muốn «giáo dục» anh, chàng tiếp, em chỉ cần bấm nút cát-xét cho anh nghe, rồi em đi ngủ cho nó khoẻ cái xác thánh.
Đề nghị được đối phương đáp lễ bằng năm vết cào chạy dài từ gò má xuống tới cổ chàng! Phe ta kêu trời như bọng, phe địch thút thít khóc. Một lúc sau, hình như thấy xót xa trong lòng, nàng bôi dầu cù là trên các vết cào để khử trùng (hay để chàng mau thấm đòn?).
-Ngày mai vô lớp biết trả lời sao, nếu có ai cắc cớ hỏi về những vết thù hằn trên lưng ngựa hoang? Chàng nhăn mặt vì rát quá, nói. Chắc cương đại mình giỡn với mèo bị nó quào!». Nàng lại cười không ra tiếng…Một chút máu đổ ra cho sóng lặng bể yên!
Tưởng đã xuôi mái xuôi chèo, bất ngờ mấy ngày sau trùng dương lại dậy sóng. Thùy tan trường về, lễ phép nhưng lạnh lùng chào hỏi ba mình rồi đi thẳng vô buồng thỏ thẻ cái gì với má nó không rõ. Độ mười phút sau, nàng tông cửa buồng chạy ra, nước mắt ràn rụa, cầm cây kéo nhỏ cắt móng tay, hướng mũi kéo về phía bụng chàng lụi tới! Nhờ phản ứng nhanh, chàng né tránh kịp thời nhưng cũng bị mũi kéo rạch một đường dài bên hông. Rồi nàng ngất xỉu. Thùy phụ cha cõng mẹ lên giường chập chộ, cạo gió, giựt tóc mai…Lúc nàng hồi tỉnh, chàng gạn hỏi, nàng chỉ khóc ngất.
-Ai biểu ba có con rơi, còn giấu má. Thùy mếu máo kể lể.
-Trời đất! Ba có con rơi hồi nào ba không hay mà má con lại biết hả Thùy?
-Nhỏ bạn học nói nghe chị nó -học trò của ba- thuật lại ba vào lớp kể chuyện tình lâm ly, trong đó người yêu ba chết, để lại đứa con rơi mà tình cờ hai mươi năm sau ba mới tìm ra tông tích.
Con hại ba rồi Thùy! Đó là chuyện hư cấu, ba dựng nên để minh họa cho bài giảng về cường độ đam mê trong tình yêu. Để câu chuyện thêm phần sống động, lôi cuốn, ba lồng các tình tiết vào bối cảnh mối tình đầu của ba ở Mỹ Tho, thuở ba mười tám tuổi…
-Bạn con nói hòn máu rơi của ba bây giờ là một cô gái mỹ miều, giống mẹ như khuôn đúc, mang luôn tên mẹ…
-Hèn chi hỗm rày anh bỏ nhà đi luông tuồng, chạy bay tóc trán! Nàng ấm ức lên tiếng, nghẹn ngào. Anh lo cho đứa con rơi còn hơn lo cho con Thùy. Anh mà không cho em gặp con bé đó, em hốt sấp nhỏ lên xe lũi xuống sông Sàigòn chết hết cho anh rảnh tay...
-Em muốn gặp nó, chàng lắc đầu đáp, thì… chờ hưỡn hưỡn một chút anh ngồi viết thành tiểu thuyết cho em tra cứu. Nếu gấp quá, em có thể bửa đầu anh ra, kích thích trung khu não nào liên quan tới cơ năng sáng tác để kiểm chứng, hoặc để nó chạy qua máy in cho em đọc sốt dẻo!
Nàng lại gập người cười không ra tiếng, rồi lui cui bôi thuốc đỏ lên vết thương rướm máu của chàng. Thiếu chút nữa là không chết người em gái hậu phương đởm đương mà chết người trai tiền phương lả lướt!

Nghĩ cũng lạ thật. Ngay từ khởi điểm, hầu như chẳng có gì lôi cuốn hai đứa đồng hành: Nếp sống, tánh tình, lối suy nghĩ, sở thích riêng tư, môi trường sinh hoạt v.v…hoàn toàn trái ngược nhau. Nàng quá cổ điển, chàng quá tân thời. Đồng nghiệp, bạn bè, thân quyến của hai đứa đều chung một nhận xét: Nàng trao duyên lầm tướng cướp! Nhưng, nghĩ lại trời cao quả thật có mắt. Nếu nam tặc chỉ xáp vô nữ tặc chắc trái đất đã nổ tung từ khuya, vì nòi thảo khấu sinh sôi, lộng hành!
Có lần nàng hỏi chàng bộ không thấy xấu hổ khi bồng bắt hết cô nầy tới cô kia, trong khi nàng chỉ một lòng một dạ với chàng sao. Chàng lập luận kiểu ó đâm, tuy chàng không chung thủy nhưng rất chung tình; chung thủy chỉ với một người, chung tình, với cả Tình Yêu!
- Phải rồi! Nàng cười nhạt châm chích. Chung tình hay…tình chung?
-Anh bị tật lớn tim…
-…nên tim anh lớn quá, đầy nhóc người yêu! Biết vậy sao còn cưới vợ làm chi?
-Tại nghe lời sư tổ…
-???
-…Socrate, tổ phụ của triết học tân kỳ. Sư phụ khuyên môn đệ trong mọi trường hợp đều nên lấy vợ. Nếu may mắn trúng ngay thục nữ, sẽ được hạnh phúc. Nếu xui xẻo quơ nhằm bả chằn, sẽ có cơ hội trở thành triết gia!
-Chuyên môn nói tầm phảo! Không có em chắt chiu, lo xa, giờ nầy chưa chắc anh có được cái quần xà lỏn mà bận nữa là khác.
-Nếu vậy, anh còn mau trở thành triết gia hơn. Ngày xưa, ông Démosthène cũng đâu có bận quần áo. Ông trụi lũi núp trong lu che thân, tài sản chỉ độc cái mủng vùa để hứng sương, hứng nước mưa uống cầm hơi. Thế mà ông cũng liệng nó luôn khi thấy một đứa bé dùng hai bàn tay vốc nước uống. Ông nghĩ mình thua trí thằng nhỏ, chưa biết tận dụng hết cái trời đã cho sẵn. Triết gia Henri Bergson cũng hằng lưu ý: «Nơi đâu có nhiều vật chất thì nơi ấy ít có tinh thần».
Nàng ngao ngán thở dài, nghĩ thầm chẳng phải mình trao thân nhầm tướng cướp, mà là gởi phận lầm người đi trên mây! Gần bốn mươi tuổi đầu rồi mà vẫn chưa có dấu hiệu nào cho thấy chàng biết lo cho vợ con. Trăm sự đều do một tay nàng quán xuyến. Ngoài chuyện rong chơi, chàng chỉ lo chuyện bao đồng. Có điều nàng vẫn yên tâm: chàng còn yêu nàng lắm và vẫn còn tha thiết với…triết học! Niềm đam mê nầy trông có vẻ bền vững hơn lòng say mê rượu ngon và «yêu nữ» nhất thời của chàng. Nàng tự trấn an, con «hải cẩu» cũng sẽ có ngày kiệt lực, ê càng. Cũng tự an ủi về vai trò tối quan trọng của người đàn bà đông phưong trong việc bảo toàn hạnh phúc gia đình. Rồi lá cũng rụng về cội thôi! Duy có một việc làm cho nàng luôn luôn lo nghĩ là chuyện chàng uống rượu. Nàng nhứt quyết phải «dứt điểm».
Có người bày cho nàng lấy mồ hôi ngựa quậy vô rượu cho chàng uống. Nốc xong ly rượu đặc chế nầy thì…sư tổ của ngài Lưu Linh cũng bó tay đầu hàng, vì hễ bắt mùi rượu là ói tới mật xanh! Nàng muốn thử nghiệm từ lâu nhưng lại lo chàng ngủm cù đèo bất tử, mình bị tiếng oan ác phụ. Cuối cùng, sau khi đắn đo cân nhắc nàng đem phương thức trị liệu thần tình nầy ra bàn với…chàng! Chàng cười dễ dãi:
-Nếu em muốn thì anh cũng sẵn lòng chìu em. Chỉ sợ uống mồ hôi ngựa vô sanh biến chứng như ngựa rượng đực, loạn dâm rượt đàn bà con gái người ta, đổ nợ dài dài…
Dự tính thử nghiệm chết từ trong trứng nước. Không phải nàng dễ tin, nhưng nàng sợ chàng mượn cớ làm sảng, lòi chành té bứa rồi đổ thừa tại lậm thuốc do nàng pha chế! Tuy nhiên, nàng vẫn không quên đeo đuổi mục tiêu tối cần triệt hạ con sâu rượu. Một bữa, chàng lảo đảo về nhà thấy cửa buồng khoá chặt, bên ngoài yết thị: Uống Rượu Không Được Vào. À há! (có) Vào Được (cũng) Không Rượu Uống! Mặc kệ chàng kêu réo ầm ĩ, bên trong vẫn im phăng phắc. Nàng yên trí sáng mai thế nào chàng cũng xuống nước năn nỉ. Ai ngờ, chưa đầy năm phút sau đã nghe «xắc-xô» thổi ồm ồm ngoài xa-lông. Nàng đâu biết tiếng lóng «mua mùng» của mấy tay «yêu nước…mắt quê hương»! Hơi rượu nực nồng đuổi muỗi như trừ tà. Đụng tới mấy ông lưu linh con, muỗi dám theo các ông «về quê» luôn!
Âm thanh trầm bổng của tiếng ngáy y như dàn nhạc đại hòa tấu, tạo cho chàng giấc mơ
êm đẹp đang dìu tiên nữ khiêu vũ dưới trăng mờ…Thình lình trời trút mưa, sấm chớp chói loà, nàng tiên hốt hoảng toan cất cánh bay đi. Chàng bật khóc, vị mặn nước mắt thấm môi, ú ớ quờ quạng níu kéo người đẹp và…mắt nhắm mắt mở, chàng nhận ra mình đang nắm chặt tay nàng, tay kia nàng đang cầm bình tưới cây tiếp tục rưới xuống mặt chàng! Đèn đuốc sáng trưng, miệng chàng vẫn nhép nhép cục muối hột trước khi tỉnh hẳn phun nó ra, định ăn thua đủ với«ác phụ». Nhưng thấy mặt nàng hầm hầm, răng nghiến trèo trẹo, mắt mở trừng trừng, chàng mất hết nhuệ khí, ngồi xếp ve ôm đầu chờ… bà xẹt!
Mở màn cuộc tra vấn vẫn là «hòa tấu khúc» muôn thuở, đầy nước mắt: Đi đâu/ Đi đâu/ Đi hoài!..Uống sao/ uống gớm/ uống ghê// Gái tơ/ kỳ nữ/ cận kề //suốt đêm!!! Mình vui mà để khổ cho vợ con ngày đêm hẹn nợ khóc thầm…Đi nhậu cho đã, về hành hạ vợ con thức trắng dờ con mắt, rồi lăn ra mở tiệm cưa, cưa gỗ như bò rống!..
Âm thanh và nhịp điệu đối nhau chan chát:
*Xanh-cốp (tức tưởi): Khổ thân em, có biết chăng?
*Nhịp chỏi: Hỡi em yêu!«Hạnh phúc nào không tả tơi, không đắng cay…»
*Vi-vát-xơ: Muốn phang anh què giò cho khỏi đi rong! Muốn may miệng anh cho khỏi uống rượu hoài!
*Lăng-tô-éc-pờ-rét-xi-vô: Muốn điếc cho khỏi nghe…Muốn câm cho khỏi nói…Muốn đui cho khỏi thấy…
*Mô-đê-ra-tô: Anh say «uống và đi»…
*Ăn-đăn-tê: Em mê «ăn với ở»…
*Điệp khúc (dồn dập): Em ly dị/ Em ly dị/ Em ly dị!!!..Em muốn chết/Em muốn chết/Em muốn… chết!!!..
*Cô-đa: Ấn// nút// băng// cát// xết// đi…em!!!
Tiếng cymbale (phèn la?) bi tráng chấm dứt bản «công-xét-tô» được thay thế bằng tiếng ly tách bay vỡ rỗn rãng…chào mừng bình minh vừa ló dạng! Thu dọn chiến trường la liệt miểng vụn văng tưới xượi đầy phòng khách, nàng tiếp tục thẩm vấn:
-Tại sao anh phải uống rượu hoài?
-Uống rượu sống dai hơn uống nước. Không tin em ra nghĩa địa coi, có bia nào ghi chết vì rượu đâu, ghi chết vì nước thì quá nhiều. Anh hỏi em, con chó saint-bernard đi cứu người bị kẹt trong cơn bão tuyết đeo trên cổ thùng rượu rhum nhỏ hay khay nước đá? Người ta báo động rượu hay nước bị ô nhiễm? Mình dùng nước hay rượu để khử trùng? Ân huệ cuối cùng dành cho người tử tội trước khi thọ hình là ly cognac hay ly coca? Tưởng thưởng một tướng quân oanh liệt thắng trận, vua ban cho chung ngự tửu hay ly trà đá chanh đường? Cúng kiến ông bà, mình rót rượu hay rót nước lạnh? Cho dù có chén nước lạnh đi nữa cũng chỉ để ông bà súc miệng chớ đâu phải để uống!
Thấy nàng chẳng nói chẳng rằng, tưởng nàng đuối lý chàng tiếp tục huênh hoang:
-Anh thấy mấy tay uống rượu coi vậy mà thảo ăn lắm, ưa chào hỏi, mời mọc, rủ rê nhập cuộc. Mấy thằng hút thì mạnh ai nấy «phê», chẳng mời mọc cũng khỏi chào miễn rủ, vì mở miệng chào hỏi sợ tắt liều thuốc đang kéo ro ro !
-Đừng có bá láp bá xàm nữa nghe chưa? Em nổi dóa lụi anh một dao chết tốt bây giờ! Anh đâu có thấy lúc anh say mèn về nằm một đống, ngáy ồ ồ, coi không khác con heo sình, con trâu trương!
-Thì ra mười mấy năm nay em ôm ấp con heo sình, con trâu trương nầy ngủ, phải không? Tâm bệnh lý học gọi hiện tượng bất thường nầy là…«thú vật dâm», một trong những lệch lạc dục tính khó trị nhứt!
Nụ cười đặc biệt ra-nước-mắt-không-ra-tiếng của nàng báo hiệu buổi hài tội chàng tạm ngưng. Thấy không khí đấu tố đã loãng, chàng rề rề tới, mơn trớn vuốt ve nàng, rù rì:
-Bữa tiệc vừa qua, anh em mừng anh lên chức chủ tịch…
-…chủ tịch?
-…Hội Thùng Thông.
-Hội gì lạ vậy? Em chưa nghe qua bao giờ.
-Hội những người «có tóc». Trọc đầu không được kết nạp.
-Hôi chống thầy chùa xuống đường hả anh?
-Không, không. Hội phi chánh trị mà!
Chàng giải thích vòng vo tam quốc, cố tạo bộ mặt hết sức nghiêm chỉnh để nàng tin tưởng lắng nghe:
-Trọc đầu như Yul Brenner bị loại vì không có tóc-không cheveux-Không Sơ Vơ. Tôn chỉ của Hội là phải có tóc-có cheveux-Có Sơ Vơ. Nắm thằng có tóc chớ ai nắm thằng trọc đầu? Nắm đây là để cho vợ nó nắm, nghe rõ? Có tóc -càng dài càng tốt- do đó được coi là ám hiệu để nhận diện những tâm hồn đồng điệu: Có Sợ Vợ…Gọi là Hội Thùng Thông vì ván thùng thông dùng để đóng trang thờ Bà. Vì vậy Hội còn được gọi là Hội Thờ Bà. Anh và đám bạn Võ-Nguyễn-Mẫn-Huỳnh đều là giới chức cao cấp của Hội.
Nàng tức tối nhận ra chàng xỏ xiêng mình, phản ứng:
-Anh bêu rêu em vừa thôi nghe!Anh mà sơ vợ ? Nói sao không sợ thụt lưỡi, chẳng sợ trời đánh! Sợ sao còn đi nập nợn tối ngày, còn uống rượu như hũ chìm dài dài, còn trững giỡn với yêu nữ đều đều như Trư Bát Giái?
-Sợ quá, đi để trốn đòn; bị đòn phải uống rượu cho quên đau; còn đau quá nên phải tìm yêu nữ thoa bóp cho đỡ rêm mình…


Màn bên tung bên hứng tạm gác vì Thùy, Tấn, Minh đã thức dậy lục đục sau bếp, sửa soạn đi học. Chàng và nàng hôm nay tới sở thế nào cũng ngủ gà ngủ gật!

Gần bốn tháng nay mất liên lạc với Võ, chàng nóng ruột xách xe lên Lái Thiêu kéo Nguyễn đi Lai Khê -Bộ chỉ huy tiền phương của Võ- dò la tin tức. Thượng sĩ thường vụ của Võ đưa hai thằng về phòng của «ông thầy» nghỉ đêm vì «thiếu tá đang đụng lớn với VC ở Chơn Thành».
Phòng của Võ ngó xuống sân trại gia binh, có vòi nưóc công cộng cho gia đình binh sĩ. Sáng hôm sau, Nguyễn và chàng đang nhâm nhi cà phê thì từ phía phông-tên nước có một giọng nữ lớn tiếng phân bua:
-Tộ cha hặn! Từ khi hặn lậy tui tợi nay, hặn chơi tui đù kiều…
-Suỵt! Một giọng nữ khác chen vào. Chèng ơi! Chiện bí mật phòng the mà chị đem ra nói ầm ầm, hổng sợ người ta cười thúi đầu sao?
Gịong nữ kia lại oang oang:
-Tui nọi thiềt mà! Hặn cờ bàc, hặn trai gại, hặn nhầu nhèt, hặn hụt xạch. Không đù kiều sao? Bao nhiêu tiền lương hặn chơi lạng hệt. Tồi nghiềp mậy đựa nhò đọi bù lăn bù lọc…
-Sao chị hổng thủ một ít tiền hộ thân?
-Cọ chợ! Giậu trong xụ-cheng , xi-lịp. Nhưng hặn tinh lặm. Hặn mân mê tui chệt cựng rồi hặn mọc tiền tui sàch trơn!
Nguyễn và chàng bụm miệng cười ra nước mắt trước hoạt cảnh vừa tức cười vừa thương tâm.
- Thằng nầy ném về bậc sư phụ của tụi mình, Nguyễn lắc đầu nói, Tao phải kiếm nó xin vài chiêu.
Không biết Nguyễn có gặp được «sư phụ» để thọ giáo không. Nhưng một tuần sau hắn mang đầu máu tới gặp Võ, Mẫn, Huỳnh và chàng ở quán Tư Sanh bên Khánh Hội. Trước đó vợ nhà đã cho chàng hay vợ Nguyễn có xuống khóc lóc, than thở với nàng là Nguyễn đã ẫm nguyên số tiền hốt hụi đi nhậu hết với bạn bè. (Vậy mà nó dám gạt chàng nó trúng áp-phe gà giống, dư tiền ăn mừng Võ trở về sau vụ hè đỏ lửa !).
-Tổ trác tao! Nguyễn vỗ vỗ cái đầu quấn băng của mình, cười khà nói. Bả đòi tự vận, tao mới trổ ngón nghề của «sư phụ». Kết quả thấy rõ: bả lim dim, sắp «chệt cựng» thì hổng biết mắc ông bà ông vải gì -chắc tại tao xỉn quá, mất «cồng trôn»- tao nổi hứng nhăn-nhăn-cắn-cắn trái tai bả, rồi sảng hoàng kêu tên con Phấn «bưởi Biên Hòa»! Bả tỉnh hồn, mở mắt trao tráo dòm tao, khện nguyên cây đèn đầu giường lên đầu tao phun máu rồi…cấm cửa tao luôn!
-Còn tao thì… Tây Nhà Đèn hại tao,Võ rầu rầu nói! Đêm đó tao đã quá, đâu còn biết trời đất gì nữa. Tao nhớ mài mại thằng Mẫn đưa tao về. Nhằm bữa cúp đện tối thui. Làm một giấc khoẻ gà, thấy trong mình chột rột, tao động cỡn bày trò «mân mê».
Võ ngừng một lúc, ực láng ly «cồng»cô-nhắc-xô-đa, tiếp:
-No đủ rồi, tao chơi rắng mắc thuật chuyện địch «giận» của thằng bạn ở Bộ Chiêu Hồi, kể chuyện tên VC miền Bắc xâm nhập miền Nam: vô tới Bến Tre, thấy hàng dừa lùn sai oằn trái, nó mừng quá, nức nở khen:« Ối giời ôi! trong Nam sao cà pháo nhớn quả thế!»...
-…rồi sao nữa «thái» tá? Nguyễn chêm vô.
-Mọi khi tao giễu dỡ như vậy là «em» động tình đồng hương đổ quạu cự rân, ngắt véo tao bầm mình. nhưng lần nầy không nghe em trả lời trả vốn gì ráo, tao nghĩ bụng chắc em đà «chệt cựng»!
-Tụi bây thấy chưa? Nguyễn vỗ đùi khoái trá la to. Bùa của sư phụ linh lắm! Rồi sao nữa Võ?
Thiếu tá vô thêm một «cồng» nữa, tiếp:
-Gần sáng, có điện lại tao mới biết mình hố! Tao tưởng thằng Mẫn chở tao tới nhà con Dung, ai dè nó đưa tao về nhà tao! Lật đật ngồi dậy, tao chạy kiếm tở mở mà chẳng thấy bóng dáng «hiền thê» tao đâu hết, chỉ thấy miếng giấy nầy treo tòn teng trên đầu giường. Tụi bây nghe nè:«Còm-măng-đăng Võ! Rơ-vút-tre-đi-vọt-xê a-véc vu./.» ( Thiếu tá Võ! Tôi muốn ly dị với ông./.)
-Không phải tôi đưa anh về đâu! Mẫn đính chánh. Bữa đó tôi «về quê» sớm lắm. Thằng Huỳnh còn tỉnh tỉnh, thấy tụi mình bò càng hết rồi nên nó kêu vợ nó tới rước. Làm sao nó dám biểu bà đầm nó đưa anh về với Dung? Banh xà-rông hết sao!
-VC mà túm được mầy, chàng nói với Võ, chắc nó ngâm giấm mầy với cà pháo!
Thấy Võ có vẻ bồn chồn lo nghĩ, chàng vỗ vai bảo Võ cứ an tâm «dô dô» mạnh đi : «Nàng của chàng» đang hướng dẫn phái đoàn «gà nhà» -gồm các đấng phu nhơn Mẫn, Nguyễn, Huỳnh- đi vấn an và «thuyết pháp» lời hơn lẽ thiệt cho Võ phu nhân xét lại quyết định xé hôn thú. Cái gì chàng còn nghi ngờ, chớ cái mục hàn gắn giùm thiên hạ thì nàng…số một La Mã. Chỉ khi nào đụng chuyện mình nàng mới mất bình tĩnh. Bởi vậy mấy bà mới a thần phù «tôn» nàng làm lãnh tụ bảo vệ gia cang!
Kể cũng ngộ! Mấy bà, dù đang tức ói máu về chuyện riêng, hễ có chuyện lục đục của bạn bè là tạm xếp chuyện mình để lo chuyện bạn trước : Nàng đang tuyệt thực vì…tình cờ vớ được tấm ảnh nằm trong túi áo jacket nhà binh của Võ mà chàng vô tình xỏ đại ra về vì trời hôm đó hơi lạnh, sau khi tới Võ nhậu. Ảnh chụp một thiếu phụ trẻ đẹp ôm con thơ, phía sau ghi :«Anh yêu! Sao lâu quá anh không ghé qua? Em và tí nhau nhớ anh lắm!» (Trời hỡi có thấu! Ách giữa đàng mang vào cổ!). Nhưng Mẫn đến cầu viện -hắn bị vợ bắt tại trận đang kề vai người đẹp trên xa lộ không đèn- Nàng cũng ráng ngồi dậy đến giải tỏa lệnh cấm vận cho Mẫn. Nguyệt, vợ Mẫn vừa hồi tỉnh đôi chút thì tới vụ Huỳnh bị vợ đòi thiến thận vì yêu nữ của hắn đánh điện tín đòi «ga Nha Chang chanh đấu giành quyền làm chủ…chồng người ta! Huỳnh chạy vuột về Sàigòn kêu cứu; cũng Nàng đứng ra dàn xếp, hòa giải. Bây giờ tới vụ Võ «cầm nhầm»…
Xong mấy vụ nhức đầu nầy rồi, không biết phải nhờ ai giải oan cho chàng đây. Không thể kêu «bọn bốn thằng» ra đỡ đạn. Mấy bà quá quen cái màn chạy tội, thằng nầy đổ thừa «cái đó» của thằng kia.
Cuối cùng, chàng nghĩ ra «sáng kiến» đề nghị Võ đưa tên đệ tử ruột tới nhận cái áo jacket «oan nghiệt» là…của nó, làm Lê Lai liều mình cứu chúa một phen cho mấy «ông thầy» được yên nhà yên cửa.

Hai tuần sau khi mất nước, sóng gió lại nổi lên trong gia đình chàng. Như thường lệ, hằng ngày chàng đến nhiệm sở trình diện chiếu lệ. Một hôm, về tới nhà chàng không thấy mấy đứa nhỏ đâu hết. Cửa buồng khóa chặt, bên trong có tiếng khóc tỉ tê. Kêu hoài chẳng ai trả lời, chàng nóng lòng tông cửa xông vào : Nàng nằm thiêm thiếp; Thùy, Tấn, Minh, đứa bóp tay, bóp chưn, đứa đánh gió, đứa lau nước mắt cho mẹ. Chàng để ý thấy nàng nắm chặt một lá thư đã nhầu nát. Lại có chuyện nữa rồi! Chàng nghĩ thầm nhưng không đoán ra chuyện gì.
Hơn mười năm nay chàng chẳng còn viết thư tình cho ai hết, cũng chẳng nhận tình thư của ai cả. Đâu có hưỡn dữ vậy! Chàng bước tới rờ trán nàng; nàng hất tay chàng ra, mắt nhắm nghiền, nước mắt trào ướt gối. Hỏi chuyện, nàng không buồn đáp. Mấy đứa nhỏ cũng sụt sùi, ấm ức nhìn chàng trân trân. Gạn hỏi mấy lần, Thùy mới kể :
-Hồi sáng má đem quần áo của ba và của tụi con ra giặt, chuẩn bị xếp giấu bớt. Chị Sáu nghỉ làm rồi nên tụi con phải phụ má. Lá thư trong tay má do con lôi từ túi áo «vết» của ba ra. Có người báo đang mang bầu với…ba!»…Thôi chết rồi, chàng sực nhớ : thư của Cathy Xù gởi cho đứa học trò trùng tên họ với chàng, mà nhà trường đã đưa lộn cho chàng!!! Phen nầy chắc hết thuốc chữa. Chàng tưởng tượng được cái «sốc» của nàng khi đọc :«…mầy đề con nít trong bụng bà rồi bỏ trốn…». Trời hại Sa Vệ!!!
Mấy ngày đêm liên tiếp, chàng ráo nước miếng giải thích, phân trần vẫn không thuyết phục được nàng. Nàng khư khư đòi chàng phải đưa nàng tới gặp người con gái đau khổ đó để giải quyết ổn thỏa. Bằng không chàng phải ra khỏi nhà đi tới ở với «người ta». Nàng nhường đứt chàng cho cô đó đó!
-Nghe anh đi em! Chàng rầu rĩ van lơn. Anh chưa hề biết mặt cô Cathy Xù, cũng chẳng hề biết nhà cửa cô ở đâu. Còn thằng học trò, bồ của cô, nó đã bỏ học lâu rồi…
-Đủ rồi! Anh khỏi cần đóng kịch. Em rành anh sáu câu nà! Anh không tới đó thì cứ việc ở đây lo nuôi con.. Em đã hết tha thiết sống vì chuyện đổi đời, lại còn mắc phải ông chồng chỉ biết lo ăn chơi! Em không thể sống nổi nữa…
-Em chớ nói bậy, không nên. Tụi nhỏ cần em hơn. Mạng anh bây giờ như chỉ mành treo chuông. Anh hứa từ nay về sau không đi chơi lang bang nữa để…
-Thôi đi anh! Bài hát đó, em nghe cả triệu lần rồi. cho dù anh có vô can trong chuyện nầy, em cũng không quên được những vụ lẹo tẹo của anh dài dài mấy năm nay. Nếu anh muốn em sống, muốn em tin thì anh hãy…cắt nó đi!
Toát mồ hôi lạnh nghĩ tới viễn ảnh «rùa nắp» của mình, chàng tận lực nài nĩ khẩn cầu:
-Tội nghiệp anh mà em! Bây giờ đâu còn cung cấm nữa mà em bắt anh làm hoạn quan!..
-Bằng không, anh phải cho em «vạt» nó đi một miếng, em mới hả dạ! Để khi có tà ý ăn vụng, ngó thấy tì vết của hình phạt đó anh thất kinh mà xa lánh tội trọng.
-Anh biết lâu nay anh đối xử tàn tệ với em. Anh sẵn sàng chịu «nhục hình» mà em đòi hỏi, để phần nào đền tội lỗi đã qua. Nhưng bây giờ VC vô rồi, nhà thương đâu còn thuốc men gì để cầm máu, cũng đâu còn bác sĩ, y tá lành nghề để băng bó…
Thấy chàng thất sắc, hốc hác, thểu não, nàng lại cười không ra tiếng…Chàng thoát khỏi kiếp thái giám trong gang tấc!

Thời gian khổ nhục trong trại cải tạo, chàng có dịp nghiền ngẫm về cuộc sống buông thả của mình trước đây. Chàng nghĩ, nếu bây giờ nàng bỏ mặt chàng trong tù để làm lại cuộc đời, chàng cũng không thấy có gì quá đáng, cũng không có gì oán trách. Nhưng nàng vẫn chịu trăm cay ngàn đắng, tất tơi tất tả «thăm nuôi», tiếp tế cho chàng.

Con cò lặn lội bờ sông,

Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non…
Những lần hiếm hoi gặp nhau trong vòng kẽm gai trại tù, chàng đau lòng nhìn thấy đôi tay búp măng của nàng đã nổi gân xanh, gót chân son của nàng đã nứt nẻ xơ xác. Thế nhưng nụ cười, tuy đã phần nào héo hắt vẫn luôn rạt rào tình thưong, vẫn thầm nói lên lòng can đảm chịu đựng gian nan, vẫn biểu lộ ý chí che lấp nỗi khốn khổ ngặt nghèo mà ngày ngày nàng và các con phải đương đầu, cho chàng an tâm cố gắng phấn đấu để trường tồn hầu còn có ngày trở về với mẹ con nàng.
Nhiều đêm trăn trở, chàng chua xót nhớ lại những tháng năm dài gây khổ hận cho nàng. Mười lăm năm, nói là chung sống thực ra hết hai phần ba thời gian nầy chàng sống cho học đường, cho quân đội, cho «công vụ», cho bè bạn, cho đắm đuối mê say ngoài khung cảnh gia đình. Thời gian còn lại, chàng tiêu pha cũng đến phân nửa để rong chơi vô tội vạ! Sơ kết, chàng thực sự sống cho nàng cao lắm một phần mười của mười lăm năm kể trên, trong số đó, hơn quá bán thời gian chàng cũng chỉ đem đến cho nàng toàn buồn phiền, bực dọc, uất ức, tủi thân!
Cho anh thổn thức niềm đau muộn
Bao năm hoang phí tuổi đời em…
Chàng xót xa mở đầu lá thư viết cho nàng từ ngục tù hắc ám. Chàng tự nguyện, ngày nào đó quay về chàng sẽ dành hết quãng đời còn lại của mình để đền bù tương xứng những hao hụt, những thua thiệt về tình cảm mà nàng đã phải gánh chịu bấy lâu nay…
Cho anh viết nốt trang tình sử,
Khóa tim căng máu, lặng đam mê,
Đưa em về lại ân tình cũ,
Rót thắm cho em vẹn ước thề.
Chàng kết thúc lá thư trong niềm ray rứt dai dẳng…

-Sáng dậy ngồi chong ngóc làm gì đó? Câu hỏi gần như quát tháo của nàng cắt đứt dòng hồi tưởng xa xưa của chàng.
-Chờ được em cà răng chớ làm gì! Chàng cười chọc quê, trả lời.
-Đống chén chưa rửa kia kìa! Nhà chưa lau, bụi chưa hút, phòng tắm chưa chùi, tuyết chưa xúc! Tối ngày cứ tơ tơ tưởng tưởng, viết viết, hút hút, uống uống, không phụ em gì hết!
-Bây giờ có viết, có hút, có uống đâu? Làm gì em cũng la. Ngồi chong ngóc cũng bị rầy. Ba cái lẻ tẻ em nói, anh quơ ba muơi giây xong ngay!
-Ở đó mà ba mươi giây! Tập thể dục chưa, đặng còn giữ cháu cho em nấu cơm nấu nước chớ!
Anh hết biết làm sao cho vừa lòng em. Thấy mặt em, anh đã hồi hộp, không biết sẽ bị «tụng» cái gì nữa đây!
Nàng sấn tới, chàng quơ tay đỡ, nhưng nàng chỉ chộp gói thuốc lá trên bàn cà phê đem đi cất, hạch hỏi :
-Anh làm gì như bị kinh phong giựt vậy?
-Phản xạ tự nhiên. Thấy anh, em không rầy rà thì cũng có thể thúc cùi chỏ bất tử lắm!
Anh chết, chắc em buồn dữ lắm vì không còn ai làm ông thần thừ cho em dợt văn, tập võ!
Nàng cúi mặt xuống bồn rửa chén cười-ra-nước-mắt-không-ra-tiếng…Nhờ những cái cười như vậy mà chàng và nàng đã ăn ở với nhau hơn ba mươi năm!

Chàng đọc lại cho nàng nghe lá thư xin từ nhiệm và thư của một cơ quan từ thiện nhận chàng làm thông dịch viên cho một trại tỵ nạn ở vùng Biển Đông. Trong đầu chàng manh nha ý hướng đưa nàng về miền đất của mặt trời và biển ấm quanh năm, sống nốt chuỗi ngày cuối đời của hai đứa.
Đặt ly cà phê xuống trước mặt chàng, nàng liếc đọc mấy dòng chữ chàng vừa viết xong : «Thâu rượu về đóng nút, trả bút về văn, trả trăng về thơ, trả nợ về báo chí…», mỉm cười không tin tưởng lắm, hỏi :
-Được bao lâu, hả anh?
Chàng không trả lời, nhắm mắt hứng đón cảm giác thanh thoát đang thấm dần vào huyết mạch với dự phóng mới mẻ, thầm kín nhưng muộn màng của mình, người lâng lâng, nhẹ nhõm như vừa nhổ xong một cái răng đau nhức quá lâu.
Mặt trời đã lên cao, tuyết tan dần dưới nắng nóng, khung trời rộng mở, thanh thoáng. Chàng giương vai đứng lên, tham lam hít thở không khí ấm mát tinh sương đầy lồng ngực. Ngoài sân, mùa xuân đã khởi đầu chuyển mình dưới lớp tuyết băng dầy đặc. Con chim nhỏ nhắn líu lo ban sáng vừa vỗ cánh bay đi. Chàng chạnh nghĩ, mai kia không còn cảnh sáng dậy nghe em cằn nhằn, thấy em cười không ra tiếng, liệu còn có thể hạnh phúc được chăng?

Thôn trang Đổ-Lá-Đầy-Ấp-Mơ, Xứ Tuyết.
Mùa Phục Sinh 1992
Lê Tấn Lộc

No comments: